Suy Niệm Thứ Năm Tuần Thánh
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là phong tục của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết. Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường. Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!
Suy Niệm 1
Kỷ Vật Tình Yêu
THÁNH LỄ TIỆC LY
(Ga 13, 1-15)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước đêm hấp hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự hiện diện thực sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.
Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. "Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta" ( Ca nhập lễ ).
"Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của "kiếp người" lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Tất cả chẳng phải là Kỷ Vật Tình Yêu Thiên Chúa để lại cho chúng ta đó hay sao?
"Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta... Các con hãy cầm lấy mà uống, chén này là Tân ước trong Máu Ta" (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Người đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.
Chưa hết, thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện : "Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy" (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tín nhiệm con người, trao cho con người tiếp tục việc làm yêu thương ấy. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta : "Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm : Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục - không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó liên kết chặt chẽ với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh. Trở nên một, chúng ta không còn tách biệt được nữa.
Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh em. Mỗi lần chúng ta tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thưa "Amen" trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là "rửa chân" cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng "đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ"(Phil 2,7).
Tình yêu là kỷ vật cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
Thánh Thể là Kỷ Vật tuyệt đỉnh của tình yêu, một ơn cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. "Rửa chân cho nhau" chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.
Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.
Suy Niệm 2:
ĐỈNH CAO CỦA MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ LÀ TÌNH YÊU
(THỨ NĂM TUẦN THÁNH - THÁNH LỄ TIỆC LY)
(Ga 13, 1 – 15)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là phong tục của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết. Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường. Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!

Một tặng phẩm cao quý được trao tặng
Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu. Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không. Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết "giờ" của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.
Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích. Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài yêu thương và yêu hết mình. Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.
Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách trực tiếp nơi mầu nhiệm cử hành. Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta!
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này:" ... như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con" (Ga 17,21). Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: "Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần".
Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể.
Một dấu tích sống động được tiếp diễn
Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau. Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể. Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.
Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục? Nhưng không! Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.
Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình. Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.
Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế. Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường! Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể. Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt. Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu.
Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi
Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu. Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành. Vì thế, đòi hỏi một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.
Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là "yêu và yêu đến cùng".
Ngài nói: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13, 34). Yêu như Thầy là yêu như thế nào? Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống. Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo. Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự ngỡ ngàng của các ông. Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ. Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: "Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" (Ga 13, 14-15). Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ. Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lực.
Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn. Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: "... mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 35).
Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu
Thánh Phaolô nói: "Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết" (1 Cr 11, 26).
Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.
Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.
Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn mời gọi và thôi thúc chúng ta thi hành.
Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con. Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế. Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ... Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.
Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái. Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu. Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: "Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34)
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang. Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con yêu rồi mới làm. Amen.
..................
Suy Niệm 3
Bữa tiệc giữa Đức Giêsu và các môn đệ chính là thông điệp Yêu Thương - Phục Vụ. Đây là trọng tâm của Tin Mừng Gioan (13,1-15), mời gọi chúng ta đồng hành với Đức Kitô trong yêu thương phục vụ muôn người.
Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu đã lập hai Bí Tích đặc biệt nói lên tình thương của Chúa đối với nhân loại: “Bí Tích Thánh Thể” để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của các tín hữu bằng chính Mình và Máu Thánh Người. “Bí Tích Truyền Chức Thánh” để thiết lập chức “Linh Mục Thừa Tác”; qua Bí Tích này, Thiên Chúa tuyển chọn một số người để làm Linh Mục thừa tác, tiếp tục cử hành Bí Tích Thánh Thể và duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Mầu Nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa qua mọi thời gian và ở mọi nơi.
Sở dĩ gọi là Linh Mục “thừa tác” vì chỉ có Chúa Giêsu là “Linh Mục Thượng Tế” trọn hảo, còn các linh mục thì được tham dự đặc biệt vào chức Linh Mục của Chúa (xin xem Thơ Thánh Phalô gửi người Do Thái, chương 7, 8 và 9). Các tín hữu cũng được tham dự cách thiêng liêng vào chức Linh Mục của Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Tẩy họ đã lãnh nhận khi gia nhập Dân Thánh Chúa. (X. 1Pr 2,9). Vì thế khi ngưòi công giáo đi lễ, không phải là chỉ “xem lễ” hay “dự lễ”, nhưng là “cùng nhau” và hợp với vị Chủ Tế dâng hiến lễ vật lên Thiên Chúa và tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại. Lễ vật dâng tiến chính là của lễ trọn hảo, là “Mình và Máu Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Bánh Miến và Rượu Nho tinh tuyền”. Cùng với lễ vật trọn hảo đó, các tín hữu dâng lên Chúa chính con người của mình (linh hồn và thân xác), và những hy sinh lao nhọc của mỗi người trong cuộc sống hàng ngày.
Trong Giao ước cũ, Bí tích Thánh Thể đặc biệt được tượng trưng bằng bữa ăn Vượt qua, được Người Hi-pri cử hành hàng năm với bánh không men, để ghi nhớ ngày ra đi vội vã và giải phóng khỏi đất Ai Cập. Chúa Giêsu đã báo trước về Bí tích này trong giáo huấn của Người, và Người đã thiết lập Bí tích này khi cử hành bữa tiệc ly với các Tông đồ,
Vì Bí tích Thánh Thể đổ tràn trong chúng ta tất cả mọi ân sủng và sự chúc lành của trời cao, Người kết hợp chúng ta với Người và với nhau trong hy tế của Người. nên Bí tích này củng cố chúng ta nên mạnh mẽ trên đường lữ hành trần gian, và làm cho chúng ta thêm lòng khao khát đời sống vĩnh cửu, khi đã liên kết chúng ta với Ðức Kitô, Ðấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, với Hội thánh thiên quốc, với Ðức Trinh Nữ Maria diễm phúc và với tất cả các thánh.
Ma, quỷ gây ra đau khổ cho cá nhân, cho gia đình và cho tha nhân qua cái tính ghen tị. Thật vậy, khi ghen tị thì cuộc đời của cá nhân đó cũng như những người trong gia đình, bạn bè thân quen … của người đó sẽ phải đau khổ, buồn phiền và bất hạnh vô cùng.
Vì ghen tị Ca-in đã xông đến giết A-ben, em mình (St 4:8).
Vì ghen tị, các anh của ông Giuse đã thủ tiêu đứa em của mình bằng cách bán cho người Ít-ma-ên hai mươi đồng bạc, và đã gây ra muôn vàn đau khổ cho người cha già yếu (St 37:12-36).
Vì ghen tị, tâm hồn vua Sa-un bất an, ăn không ngon, ngủ không yên, làm cho gia cang xào xáo, quần thần hỗn loạn, chia rẽ … và vua Sa-un tìm cách dùng cây giáo ghim ông Đa-vít vào tường (1 Sam 19:10).
Vì ghen tị cho nên những người vào làm trước nhất đã phiền trách, bất bình và cằn nhằn ông chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20:12).
Cũng trong “bửa ăn tình thương” tối Thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu cúi mình xuống rửa chân cho các tông đồ, để dạy cho các Ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn. Sau khi rửa chân cho 12 ông xong, Chúa Giêsu mới nói: “Thầy đã cúi xuống rửa chân cho chúng con là để dạy chúng con bài học yêu thương phục vụ: Như Thầy đã rửa chân cho chúng con, chúng con cũng hãy rửa chân cho nhau …” (x. Ga 13,12). Chúa Giêsu, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lời di chúc của người sắp ra đi thật là trang trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã khẳng định đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!
Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.
Giới răn yêu thương của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn, độc đáo và đặc thù Đó là yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu.
Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình yêu đối với tha nhân là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến.
cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.
Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.
Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.
Thưa anh chị em,
Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều mạng” để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì “người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”. “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Vậy, ai không yêu thương nhau, người ấy không phải là Kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.
Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoảng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.
“Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b).
Lẽ ra, trước lúc bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu đã căm hận, thù ghét những kẻ bên cạnh mình, khi biết họ đang ra tay phản bội, chối bỏ Ngài cách nghiệt ngã? Không, giữa lúc đắng cay dày xé tâm can ấy, chúng ta thấy “Người Tôi Trung Đau Khổ” đã tuôn trào một một tình thương cao cả, lạ lùng nhất. Nếu con người càng gây tổn hại, đau khổ cho Ngài bao nhiêu, Ngài lại càng thương yêu họ bấy nhiêu. Ngài đã biểu tỏ trước sự tổn thương lớn nhất cùng sự bất trung tệ bạc nhất bằng thái độ khiêm hạ nhất và bằng tình yêu cao cả, đẹp đẽ hơn hết.
Giữa bộn bề cuộc sống, giữa cơn ác mộng của quyền lực, danh vọng, Chúa vẫn đang mời gọi ta làm người phục vụ anh em:
Hành động cao cả của Chúa Giêsu khiến ta phải suy nghĩ. Nhiều khi ta vẫn viễn vông nghĩ về quyền cao, chức trọng, nghĩ về những chiếc ghế danh dự với ngàn vạn lời chúc vinh nồng nhiệt, nhưng ta lại rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến hai từ “phục vụ” đúng nghĩa.
Quả thực, ta thích được người ta “rửa chân” mình, nhưng lại sợ và hoàn toàn không muốn “rửa chân” người.
Gương khiêm hạ của Chúa Giêsu đã dạy cho ta bài học quý về sự cao trọng của phục vụ. Nó chỉ thực sự thành tựu khi ta biết lắng nghe lời mời gọi của Tin Mừng với tâm tình và hành động của người môn đệ đã được Chúa Giêsu thương yêu, và biết phục vụ như Người.
Giới răn yêu thương
Viết về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để được sống còn. Người ta sống nhờ những gì mà người ta cho đi.
Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng lên các rào cản, cả những bức tường giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi tình cảm sâu sắc, quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em và chị em, yêu là điều sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục của tính ích kỷ.
Khi bước vào nhà tù, Oscar Wilde nói: “Bằng mọi giá, tôi phải giữ gìn tình yêu thương trong lòng tôi. Nếu tôi vào tù mà không có tình yêu thương thì linh hồn của tôi sẽ ra sao?”.
Nếu không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng những người sống yêu thương, có một đời sống phong phú và hiệu quả. “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học toả sáng tình yêu thương” (William Blake). Giải thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác.
Một bác sĩ, được chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của nhiều cuộc đời nói rằng, con người đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng, điều thật sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn.
Nền tảng phẩm giá ta là gì?
Phẩm giá của ta bắt nguồn trong việc ta được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Ðược phú bẩm một linh hồn thiêng liêng và bất tử, lý trí và ý chí tự do, ta được qui hướng về Thiên Chúa và được mời gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cả hồn lẫn xác.
Ta đạt được diễm phúc nhờ ân sủng của Ðức Kitô, ân sủng này cho ta được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Ðức Kitô chỉ cho các môn đệ của mình con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu: đó là các Mối phúc. Ân sủng của Ðức Kitô cũng hoạt động trong tất cả những ai, dựa theo lương tâm ngay thẳng, tìm kiếm và yêu mến chân lý và điều thiện, và tránh điều ác.
Các Mối phúc nằm ở trung tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu. Chúng nhắc lại các lời hứa mà Thiên Chúa đã trao ban từ thời ông Ábraham và hoàn thành các lời hứa. Các Mối phúc diễn tả chính diện mạo của Chúa Giêsu, nêu lên những đặc tính đích thực của đời sống ta và mạc khải cho ta cùng đích hoạt động của ta : đó là hạnh phúc đời đời.
Các mối phúc đáp lại lòng khao khát bẩm sinh về hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn ta để lôi kéo ta về với Ngài và chỉ mình Ngài mới có thể lấp đầy lòng khao khát ấy.
Hạnh phúc đời đời là gì?
Ðó là việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu, ở đó ta sẽ được trọn vẹn "thông phần bản tính Thiên Chúa" (2 Pr 1,4), thông phần vinh quang của Ðức Kitô và niềm vui của đời sống Ba Ngôi. Hạnh phúc đời đời vượt quá khả năng con người. Ðó là một hồng ân siêu nhiên và nhưng không của Thiên Chúa, cũng như ân sủng dẫn đưa ta đến đó. Hạnh phúc được hứa ban đặt ta trước những chọn lựa luân lý quan trọng về của cải trần thế, thúc đẩy ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Bản chất người Kitô hữu: diễn tả tình yêu Thiên Chúa
Đức Thánh Cha (ĐTC) Bênêđictô XVI, dựa trên giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, đã xác định một cách đơn giản rằng: bản chất của người Kitô hữu chính là diễn tả tình yêu cứu độ của Chúa cho mọi người. Trong thông điệp đầu tiên, Deus Caritas est “Thiên Chúa là Bác ái” (x. 1Ga 4,8), ngài xác định bản chất của Thiên Chúa là tình yêu rộng lớn, là bác ái và bản chất của người Kitô hữu cũng là bác ái vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa nên nhận được tình yêu của Thiên Chúa và diễn tả tình yêu ấy cho mọi người.
ĐTC mời gọi chúng ta tìm hiểu thêm vì trong dòng lịch sử nhân loại người ta nghĩ về bản chất này chưa trọn vẹn. Trong nhiều thế kỷ, hình như đời sống đạo tập trung vào việc dự lễ, cầu kinh và đón nhận các bí tích, nghĩa là diễn ra ở trong nhà thờ. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, hoà mình vào đời sống xã hội, hầu như không ai còn nhận ra tính cách đặc biệt của người tín hữu. Với Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội xác định thêm yếu tố thứ hai trong đời sống tín hữu, đó là truyền giáo, là rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cho mọi người. Các sắc lệnh của Công đồng Vaticanô II (Ad Gentes: Đến với Muôn dân và Actuositatem Apostolicam: Hoạt động Tông đồ) nói rằng bản chất của Giáo Hội cũng như của từng người tín hữu là truyền giáo.
Những người chọn lựa yêu thương mở rộng tâm hồn mình cho những hạnh phúc lớn hơn những người không bao giờ biết đến yêu thương. Yêu thương là hạnh phúc. Nó làm chúng ta sung mãn. Từ chối yêu là bắt đầu chết. Yêu thương là bắt đầu sống. Trong lúc đức tin làm cho mọi sự thành có thể, tình yêu làm cho mọi sự được dễ dàng. Yêu thương chữa lành mọi người –cả kẻ cho lẫn người nhận.
Tracy Liên Đồng ( trích từ Internet)
........................................................
Suy Niệm 4:
Trang Tin mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Maccô trình bày cho chúng ta nhiều nhận thức khác nhau về con người Chúa Giêsu.
Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về Chúa Giêsu: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người Chúa Giêsu; chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài.
Trước hết là từ đám đông các nơi tìm đến với Chúa, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng họ chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; và nhận ra dấu chỉ của Nước Trời mà Chúa Giêsu đã loan báo. Còn ma quỷ thì biết Chúa Giêsu là ai, nhưng biết để hận thù chứ không phải để sống.
Chỉ có nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với Chúa Giêsu, biết ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài. Và đây chính là sự hiểu biết mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi kitô hữu chúng ta.
Thầy Giêsu vẫn quen giảng khởi đi từ những chuyện hàng ngày.
Thời xưa, khi chưa có điện, ngọn đèn dầu đem lại ánh sáng cho cả căn nhà. Bởi vậy không thể nào hiểu được chuyện ai đó thắp đèn lên, rồi lại đặt nó dưới cái thùng hay gầm giường. Cứ sự thường phải đặt nó trên đế để soi sáng mọi sự. Ngọn đèn mà Thầy Giêsu nói ở đây có thể ám chỉ Tin Mừng của Ngài, và cũng có thể ám chỉ chính Con Người của Ngài. Tin Mừng ấy không được phép đem giấu đi, nhưng phải được quảng bá và rao giảng. Con Người Đức Giêsu không được che kín sau bức màn, nhưng phải được từ từ vén mở cho mọi người thấy.
Trình thuật Tin Mừng của thánh Maccô 3, 7-12 xảy ra sau năm cuộc tranh luận tại Capharnaum (Mc 2,1-3,6) giữa Chúa Giêsu với các kinh sư (Mc 2, 6.16) hoặc với những người Pharisêu (Mc 2,24; 3,6). Các cuộc tranh luận này không chỉ liên quan đến những vấn đề lý thuyết, nhưng phát xuất từ những sự kiện cụ thể. Các cuộc xung đột này dẫn đến việc phái Pharisêu tìm cách giết Chúa Giêsu (Mc 3,6).
Trước những thái độ như vậy, Chúa Giêsu đã đối xử nhẹ nhàng, không tranh luận với những người chống đối khi thấy không cần thiết. Chúa Giêsu cũng không muốn khua chiêng đánh trống hay quảng cáo ồn ào. Ngài đã dùng tình thương chứ không dùng tài nghệ để đối xử với mọi người.
Đó là lý do tại sao ở cuối cuộc xung đột thứ năm này, Maccô cho thấy cuộc đời của Chúa Giêsu không dễ dàng, nhẹ nhàng, nhưng Ngài sẽ phải đối diện với cái chết do sứ mạng của Ngài. Tuy nhiên, thánh sử Maccô không dừng lại Tin mừng của mình với gam màu xám trong hành trình sứ vụ của Chúa Giêsu, nhưng Maccô đã mở ra một bức tranh rực rỡ vinh quang với những sắc màu tuyệt đẹp trong vinh quang, quyền lực của Chúa Giêsu.
Thánh Maccô nhấn mạnh rất nhiều về việc Chúa Giêsu xua đuổi, trục xuất ma quỷ. Phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu là việc xua đuổi ma quỷ (Mc 1, 25), và đây là phép lạ gây tiếng vang, ảnh hưởng của Chúa Giêsu đến với mọi người vùng lân cận miền Galilê (Mc 1,28).
Một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra xung đột giữa Chúa Giêsu và các kinh sư chính là việc Ngài xua trừ ma quỷ (Mc 3,22). Đó cũng là quyền lực mà Chúa Giêsu đã trao ban cho các tông đồ để các ông ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Mc 16,17). Chắc chắn, Maccô phải có chủ ý khi nhấn mạnh nhiều về quyền năng xua trừ ma quỷ trong Tin Mừng của ông.
Một trong những mục tiêu của Tin mừng nơi Chúa Giêsu là việc giải phóng con người ra khỏi sự sợ hãi này. Nước Thiên Chúa đang đến đồng nghĩa với một quyền lực mạnh mẽ đang đến. Chúa Giêsu chính là Đấng đầy quyền năng, mạnh mẽ. Ngài đến để chế ngự Satan, chiến thắng tội lỗi, giải thoát con người ra khỏi mưu mô, quyền lực của ác thần, của tội lỗi, của những điều xấu xa, của sự sợ hãi…
Đó là lý do tại sao Maccô nhấn mạnh rất nhiều đến chiến thắng vinh quang của Chúa Giêsu trên sự xấu xa, tội lỗi, ma quỷ, trên Satan. Từ khi bắt đầu cuốn Tin mừng, cho đến khi kết thúc, thánh Maccô lặp đi lặp lại cùng thông điệp với các từ ngữ gần như nhau “Ngài xua trừ ma quỷ, trục xuất các thần ô uế” (Mc 1, 26.27.34.39; 3, 11-12.15.22.30: 5, 1-20; 6, 7.13; 7, 25-29; 9,25-27.38; 16, 9.17).
Dường như đó là một điệp khúc được lặp đi lặp lại trong Tin mừng của Maccô và thánh sử muốn nhắc đến niềm tin vào Chúa Giêsu của người Kitô hữu trong thế giới đầy dẫy những tội ác, sự xấu xa, bất công, hận thù, ghen ghét…
Thật vậy, với Chúa Giêsu, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà Chúa Giêsu đang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Những thái độ của con người đối với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng này gợi ý cho tôi xem lại thái độ của tôi đối với Chúa Giêsu, đối với Lời Chúa dạy ta mỗi ngày. Thái độ của Chúa Giêsu trong Lời Chúa hôm nay cũng là tấm gương cho ta trong việc phục vụ tha nhân và thi hành bổn phận. Đó là thái độ khiêm tốn hiền hòa trong tương quan đối với tha nhân.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hiểu ra rằng: dù trong bất cứ một hoàn cảnh, nghịch cảnh nào, người Kitô hữu luôn tin rằng, họ sẽ vượt qua được những thử thách, những sóng gió, những điều xấu xa, những tội lỗi đang rình rập…. vì Chúa Giêsu đã chiến thắng quỷ thần, Ngài sẽ giải thoát họ khỏi những gông cùm của bạo lực, bất công, khỏi những mưu mô của ác thần đang vây bủa xung quanh họ. Ngài đã chiến thắng sự dữ, và vinh quang tuyệt vời trước cái chết là sự Phục sinh vinh hiển.
( trích từ Internet)
Post A Comment:
0 comments: