Đêm Vọng Phục Sinh
Cv 10, 34.37-43 ; Cl 3, 1-4 ; Mc 16, 1-8
.
1. Nấm mộ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Tin Mừng Phục Sinh (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Hãy lăn tảng đá ra (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
4. Các bà tìm Giê-su Na-da-rét, (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
5. Biên độ chết – sống (Trầm Thiên Thu)
6. Ha-lê-lui-a, Chúa đã phục sinh (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)
7. Cùng Chúa chiến thắng sự chết (Lm. Đan Vinh – HHTM)
Cv 10, 34.37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9
.
1. Nhân Chứng Phục Sinh (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Rao truyền ơn Phục sinh (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Sự sống lại là niềm hy vọng (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Sự sống đang trào dâng (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
5. Trở thành chứng nhân đáng tin (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
6. Nhìn với đôi mắt trong sạch (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
7. Tìm Đấng Phục sinh (Trầm Thiên Thu)
8. Cùng sống lại với Chúa Ki-tô (Lm. Đan Vinh – HHTM)
9. “Ngôi mộ trống” hay “bằng chứng sống”? (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)
Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội dừng chân suy tư bên mộ Chúa. Tại một số giáo phận có các thừa sai thuộc dòng Đaminh, quen gọi là “Địa phận dòng”, Tuần Thánh được cử hành với những nghi thức truyền thống của các thừa sai Đaminh Tây Ban Nha. Sau khi tháo đanh, Chúa Giêsu được an táng trong hang đá, suốt đêm thứ Sáu và cả ngày thứ Bảy. Từng nhóm tín hữu đến viếng và “hôn chân Chúa” trong tiếng ca vãn bi ai. Mọi người tham dự nghi thức “ngắm đàng Thánh Giá” chiều thứ Bảy đều mang vành tang trắng trên đầu, như để thương tiếc một người thân đã khuất.
Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Bằng chứng của sự chết là khi một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, máu và nước chảy ra. Người được an táng trong huyệt mộ. Những kỳ mục Do Thái cũng như những người đòi lên án tử cho Chúa đều nghĩ họ đã thành công. Bởi lẽ, loại trừ được vị Ngôn sứ thành Nagiarét, họ như trút được gánh nặng. Chúa Giêsu bị họ coi là một người phản loạn, một người hay bắt bẻ và phê phán họ trước quần chúng. Những người dân thành Giêrusalem, sau khi chứng kiến cái chết của Chúa, cũng trở về với những bận rộn của ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua. Sự kiện một người bị lên án tử đối với họ cũng dần trôi vào dĩ vãng. Cũng có những người thương cảm trước một người tử tội theo lẽ tình đồng loại, nhưng sự thương cảm ấy cũng phải nhường chỗ cho những âu lo của cuộc sống thường ngày.
Vào lúc sự ác dường như đã lên ngôi, thì chính Thiên Chúa hành động. Đức Giêsu được an táng trong mồ được sánh ví như ông Ađam ngủ say để từ đó, Chúa làm phát sinh một dân tộc mới từ cạnh sườn của ông. Sau ba ngày, Chúa Giêsu đã chỗi dậy từ giữa những kẻ chết. Lòng đất tăm tối không thể giam hãm Đấng đã làm cho kẻ chết bước ra khỏi mồ. Tử thần không thể đánh bại Đấng ban sự sống. Nấm mộ không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã phục sinh để chứng minh quyền năng của Người. Khởi đi từ sự phục sinh của Con Thiên Chúa, Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới trong Đức Kitô. Kể từ khi Đức Giêsu sống lại, mỗi khi dừng lại bên nấm mộ của người thân, chúng ta có quyền tin rằng, sẽ có ngày nắp mộ sẽ bật mở ra để người chết đi ra. Vì con người không được tạo dựng để bị quên lãng mãi mãi trong lòng đất, mà để sống và ca tụng Chúa trong vinh quang đời đời.
Phụng vụ Canh thức Phục Sinh chia làm bốn phần: Nghi thức làm phép lửa, Phụng vụ Lời Chúa, Phụng vụ Phép Rửa và Phụng vụ Thánh Thể. Cả bốn phần đều nhấn mạnh đến sự sống / sự chết; ánh sáng / tối tăm; thánh thiện / tội lỗi; niềm vui / tang tóc. Như thế, đêm Canh thức diễn tả cuộc đời trần thế của chúng ta. Quả thật, sống là cuộc chiến đấu liên lỷ để sự sống chiến thắng sự chết; để ánh sáng đè bẹp tối tăm; để sự thánh thiện vượt lên tội lỗi và để niềm vui thay thế đau thương.
Đấng Phục Sinh như một vầng sáng bừng lên giữa nơi mồ tối. Nghi thức làm phép lửa mới chiếm vị trí quan trọng mở đầu buổi canh thức. Ánh sáng bừng lên trong đêm tối. Ánh sáng chan hòa sưởi ấm con người và cuộc sống nhân gian. Ánh sáng chính là Đức Giêsu Kitô, như Người đã xác quyết: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Khởi đi từ ánh lửa bừng lên trong đêm tối, phụng vụ đêm nay kết thúc trong niềm vui chan hòa, vì “Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,9).
“Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Chúa Giêsu đã qua thập giá mà tiến tới phục sinh. Những ai muốn phục sinh với Chúa, cũng cần phải trải qua thập giá. Mùa Chay là mùa sám hối, là mùa chết đi cho tội để được phục sinh với Chúa. Nấm mộ là nơi vùi chôn những lỗi lầm của thời dĩ vãng. Nấm mộ là nơi chấm hết của nếp sống cũ với những yếu đuối khuyết điểm, đồng thời là nơi khởi đầu một cuộc sống mới được ánh sáng của Đấng Phục Sinh chiếu soi.
Khi mừng lễ Phục Sinh, mỗi chúng ta cần để cho ánh sáng của Chúa Giêsu sống lại chiếu sáng. Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện để chúc lành và nâng đỡ chúng ta trong mọi nẻo đường của hành trình con người.
Khi cần bàn hỏi tới việc trăm năm của mình, thường ta tìm đến người tài giỏi, người có kinh nghiệm. Nói đến Sông Bạch Đằng, đại đa số mọi người sẽ nhớ tới Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, và Trần Hưng Đạo thắng quân Nguyên Mông, thật đáng nể phục. Và thông thường, nói đến tình yêu người ta vẫn nói đến tình yêu của người trẻ, tình yêu của đôi trai tài gái sắc, xem ra tình yêu của người già không mấy hấp dẫn, vì thế ít người nhắc tới !
Với chúng ta khi nghe Tin Mừng Phục Sinh hôm nay thì sao ? Phái yếu hay phái nữ được đề cao, nhất là thời xa xưa, thời Chúa Giêsu người ta vẫn xem thường phụ nữ. Nếu như các ngày Mùa Chay và Tuần Thánh, phụng vụ nói nhiều đến tội lỗi và bội phản của các tông đồ của con người nói chung. Giờ đây, tin vui Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa lại đề cập nhiều tới những phụ nữ, không phải là nói thoáng qua, mà nói khá kỹ về tính can đảm, lòng đầy mến yêu, nghĩa tình của phụ nữ cần được báo đáp cân xứng.
Những con người yêu mến, tin tưởng vào Chúa cách loáng thoáng như chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay, liệu sẽ được Chúa Kitô Phục Sinh bù đắp như thế nào ? Trước hết, Chúa Phục Sinh, Chúa sống lại, một phép lạ vĩ đại của Ngài, dành cho người tin, và cả những ai chưa tin Ngài là Thiên Chúa. Cứ bình thường : chết là hết, sau đó những lời nói của Giêsu, việc làm của ông Giêsu có liên quan tới các học trò, tới những ý tưởng sống, người sùng mộ đến mấy, rồi cũng đi vào quên lãng theo qui luật.
Như thế nào là bình thường, là bất thường ? Tảng đá to phải nằm im, nhưng không ! Cửa mộ đã bị bật tung. Trong huyệt đá ấy chỉ còn dây băng, tấm khăn liệm. Thân xác Chúa không bị phân hủy, Chúa đã Phục Sinh và tỏ hiện đến tâm tư nhiều người. Đang trên đường đi viếng mộ Chúa, các phụ nữ ấy phân vân : “Ai sẽ lật tảng đá to ra khỏi cửa mộ cho chúng ta”? Phải có sức mạnh người ta mới lăn được tảng đá to khỏi mộ, thế rồi, các phụ nữ khi ấy được chứng kiến “Ngôi Mộ Trống”, họ đã nhận ra Tin Mừng Phục Sinh và họ biết việc đầu tiên phải làm là báo cho các tông đồ.
Phát xuất từ kinh nghiệm tình thương, thánh Phaolô đã quả quyết rằng, nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì tất cả những người Kitô hữu bị xem là không bình thường. Căn cứ vào đâu để mà nói tới sống-chết ? Sự kiện “ngôi mộ trống”, trả lời tất cả, đã giúp cho đức tin của chúng ta thực sự phong phú hơn. Tuy không làm nam giới, không tài giỏi, hoặc có công trạng to lớn gì với Thầy – Trò Giêsu, không mưu trí, không có điều kiện các phục nữ thời nay, nhưng các chị em ấy luôn ý thức sứ mệnh theo Thầy Giêsu là gì.
Tại nơi “mộ trống”, các phụ nữ năm xưa thấy mất xác Thầy, họ đồng lòng muốn tìm cái xác ấy thôi, Tin Mừng Phục Sinh đã gạt bỏ khỏi nơi tâm trí họ ý nghĩ đó. “Ngôi mộ trống”, chẳng mấy chốc đã được “người thanh niên mặc áo dài trắng” lấp đầy lòng các bà niềm hân hoan vui mừng Chúa sống lại.
Các chị phụ nữ xưa kia không nhìn thấy Chúa bằng con mắt thường, nhờ đức tin đơn sơ, tai các bà sung sướng được nghe Tin Mừng Phục Sinh : “Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa”. Đúng, không có ánh sáng, thế gian sẽ tối tăm bao trùm. Không có sự thiện : vũ khí tối tân nhất cũng không thắng được sự dữ. Không có Phục Sinh, thì chỉ có sự chết, chẳng cần đến niềm tin làm gì.
Để có Phục Sinh, tất cả phải qua thập giá mới tới vinh quang, Tin Mừng Phục Sinh đã và đang tiếp tục chiếu soi. Chắc hẳn các tông đồ không muốn mình bị gọi là người hèn nhát, sợ chết, nhưng đối diện với cuộc thương khó của Thầy, các ông phải nhận ra các ông thật yếu đuối, tội lỗi, bất lực. Các ông rất cần đến Tin Mừng Phục Sinh, đến tình yêu và ơn tha thứ của Thầy Giêsu. Chính những người tội lỗi đã từng chối Chúa, và tất cả những ai hôm nay theo Chúa làm tông đồ, đều được Tin Mừng Phục Sinh biến đổi, nếu như chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa.
Giáo Hội luôn muốn chúng ta hãy sống hân hoan và mở lòng đón Tin Mừng Phục Sinh, không phải chỉ hôm nay mà trong suốt cuộc đời của mình. Giáo Hội không đề cao sự yếu đuối tội lỗi, không có ý nêu cao tính anh hùng, mạnh dạn như các chị em phụ nữ ra mồ từ sớm, tất cả là đang hướng tâm trí chúng ta cùng xác tín : Đức Kitô đã sống lại… Các Phụ nữ đã loan Tin Phục Sinh, các tông đồ đã biết tiếp tục sứ mạng Chúa trao…… Và chúng ta sẽ sống chứng nhân ra sao ? Tin Mừng Phục Sinh phải là trách nhiệm của mọi người. Amen.
Người ta kể lại trường hợp của một người bị nhồi máu cơ tim, sau khi sử dụng mọi biện pháp cấp cứu, bệnh viện kết luận rằng bệnh nhân đã chết và gia đình đã đem bệnh nhân về nhà để lo mai táng. Tuy nhiên khi tẩm liệm, người ta thấy xác người này vẫn mềm. Một người bạn thân đã đề nghị gia đình ngưng việc tẩm liệm. Đến chiều, người ta thấy cái xác dường như cử động. Mọi người sợ hãi bỏ chạy, người bạn kia mạnh dạn đến gần thì thấy cái xác mở mắt. Ông đã giục gia đình đem người nhà đến bệnh viện và người bệnh đã phục hồi. Các bác sĩ cho rằng, người chết này chỉ chết lâm sàng dạng sâu, nên các bác sĩ tại bệnh viện trước đây đã kết luận là ông đã chết. Điều đáng lưu ý là tại sao gia đình và người thân khi thấy xác ông cử động trở lại, họ không vui mừng vì thấy ông còn sống mà lại sợ hãi bỏ chạy ? Có lẽ vì trong đầu họ, người thân đã chết thật rồi.
Câu chuyện trên giúp chúng ta dễ hiểu tâm trạng của các phụ nữ Tin Mừng thuật lại : Khi được hai người mặc áo trắng báo tin Chúa đã sống lại, các bà ra khỏi mộ liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía, không dám nói gì với ai vì sợ.
Sự kiện Chúa sống lại, mặc dù đã được Chúa nói trước nhiều lần, song đây vẫn là một điều vượt quá sức tưởng tượng, chưa bao giờ thấy. Vì thế, các phụ nữ này vô cùng sợ hãi và không dễ dàng chấp nhận. Trong tâm hồn các bà, Chúa đã chết, đã chấm dứt tất cả, không còn hy vọng gì nữa. Các bà ra mộ với một mục đích duy nhất là đi thăm và chăm sóc một cái xác đã chết. Ý nghĩ này bao trùm tâm trí các bà khiến tâm hồn các bà chìm ngập trong sự ám ảnh về cái chết của Chúa Giêsu. Bên cạnh đó, hòn đá lấp cửa mộ cũng đồng thời là hòn đá đang đè nặng trên tâm trí các bà và đè bẹp mọi hy vọng của các phụ nữ này. Các bà bảo nhau : Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm chúng ta ?
Chắc chắn không ai có thể lăn tảng đá ra khỏi tâm hồn, trừ khi có bàn tay của Thiên Chúa. Khi các phụ nữ đến nơi, ngước mắt lên, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi cửa mộ. Điều này cho thấy : Tin Mừng Phục sinh vượt quá lẽ tự nhiên của con người, nếu chúng ta cứ mãi cắm mặt xuống đất, nuôi dưỡng những lý luận theo kiểu dưới đất, thì chúng ta sẽ bị chôn vùi trong ngôi mộ chết chóc của nó. Ngược lại, biến cố phục sinh đòi chúng ta phải ngước mắt lên, chỉ khi ngước mắt lên chúng ta mới thấy và nhận ra quyền năng của Thiên Chúa ; ngước mắt lên để chúng ta có sức mạnh đẩy lui hòn đá chết chóc ra khỏi tâm hồn.
Người thanh niên mặc áo trắng nói với các bà : Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazaret, Đấng bị đóng đinh ? Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa. Đó là tin mừng Phục sinh đầu tiên được loan báo cho các phụ nữ. Để củng cố cho niềm tin này, người thanh niên đó lại dặn các phụ nữ : Về nói với các môn đệ của Người và ông Phêrô rằng, Người sẽ đến Galilêa trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người.
Về báo cho các môn đệ và ông Phêrô – điều này cho thấy niềm tin vào Chúa phục sinh phải được cậy dựa vào niềm tin của các tông đồ là Giáo hội mà Phêrô là thủ lãnh. Chính Phêrô và các tông đồ mới là những người có tiếng nói quyết định và sau cùng về vấn đề này. Vì thế, để đón nhận được mầu nhiệm phục sinh, chúng ta phải gắn bó và nghe theo sự dạy bảo của Phêrô và các tông đồ.
Chúa phục sinh hẹn gặp các tông đồ tại Galiêa. Ngài vẫn hẹn chúng ta đến để được gặp Ngài. Ngài hẹn gặp chúng ta nơi Thánh lễ mỗi ngày. Nơi đây, chúng ta sẽ được gặp Đấng Phục sinh một cách sống động, cụ thể qua Lời của Ngài, qua giáo huấn của Giáo hội. Đặc biệt, chúng ta sẽ gặp Ngài qua bí tích Thánh Thể. Nhờ gặp gỡ Chúa Phục sinh mỗi ngày, chúng ta sẽ được biến đổi nên con người mới.
Để đón nhận được Tin mừng phục sinh, chúng ta phải lật tảng đá chết chóc đang đè nặng tâm hồn. Cần lật bỏ hòn đá tội lỗi, đang làm chúng ta xa tránh Thiên Chúa, dửng dưng với Tin mừng Phục sinh, trở nên vô cảm với lời chứng của Giáo Hội. Bên cạnh đó còn có những tảng đá lớn mà xã hội và con người ngày nay đang cố ý dè trên chúng ta. Đó là lối sống duy khoa khọc, tư tưởng duy vật vô thần, những trào lưu sống thực dụng, tiêu dùng, hưởng thụ đang là những hòn đá lớn cản trở, khiến nhiều người nghi ngờ về Mầu nhiệm Phục sinh.
Điều quan trọng để đón nhận được Tin vui Phục sinh, chúng ta phải ngước mắt lên để nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa, để thấy những sự siêu việt mà Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử và trong cuộc đời mỗi người. Đừng cắm mặt xuống đất để tìm vật chất, cũng đừng cắm mặt xuống vì sợ hãi. Có những người sợ mất quyền lợi, mất địa vị xã hội, họ cố tình cắm mặt xuống đất, không dám thể hiện niềm tin cuả mình, không dám loan truyền mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Hãy ngước mặt lên để bước ra khỏi sự sợ hãi ngại ngùng, hiên ngang sống và làm chứng về việc Chúa đã sống lại. Ngước mắt lên để nhìn thấy quyền năng biến đổi của Thiên Chúa, để dám phó thác, tin tưởng vào Ngài.
Sau cùng, Thánh Phalô đã dạy chúng ta : Dòng nước thánh tẩy đã làm cho chúng ta trở nên con người mới. Ánh sáng của Chúa Phục sinh đã được thắp sáng trong mỗi chúng ta. Hãy làm cho ngọn đèn phục sinh luôn cháy sáng và luôn chiếu tỏa ra cho anh chị em qua đời sống gương sáng của mình. Hãy để cho dòng nước tái sinh của Bí tích Rửa tội làm cho chúng ta nên con người mới. Hãy chôn vùi khỏi chúng ta sự lười biếng, tội lỗi và những thói xấu để trở nên con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô Phục sinh. Amen.
Ấn tượng mạnh nhất mà tôi có khi đọc bài tường thuật biến cố Phục Sinh của Mác-cô là nỗi kinh hãi của các chứng nhân đầu tiên, nhóm phụ nữ ra thăm mồ từ sáng sớm. Không hề che đậy, tác giả Mác-cô đã hầu như cố tình lập đi lập lại mối hoảng sợ này, ‘Các bà hoảng sợ… Người thanh niên liền nói : “Đừng hoảng sợ!”… Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.” Tại sao họ lại hoảng sợ, tôi tự hỏi: vì họ là phụ nữ chăng? – Không hẳn thế (xem Mt. 28:4); vì người thanh niên mặc áo trắng chăng? – Lời trấn an cho thấy chàng không phải là nguyên nhân. Mối hoảng sợ tới chính từ ngôi mộ trống! Nếu tảng đá cửa mộ chưa được lăn ra, và rồi các bà tự tìm được cách vào bên trong để thấy xác Người còn đó, chắc hẳn họ sẽ mừng rỡ chứ không khiếp sợ đến thế. ‘Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ dùm ta đây?”’ Các bà hết hồn hết vía vì được loan báo: “Giê-su Na-da-rét bị đóng đinh… đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đặt Người đây này!”
Câu chuyện về Đức Giê-su của Mác-cô kết thúc đột ngột với trình thuật các phụ nữ khám phá ra ngôi mộ trống, và tiếp đó là một bài ngắn gọn ghi nhận một số lần Chúa, trong một sức sống hoàn toàn mới, đã hiện ra cho một số nhân chứng. Đối với tác giả, đây không còn là con người Giê-su mà người ta từng biết trước kia nữa, nhưng là một Giê-su được sinh lại trong Thần Khí để không bao giời chết nữa. “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2). Con người Giê-su Na-da-rét cũ đã kết thúc với “Người lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:37); sau đó một khoảng trống vắng lạnh lùng: ngôi mộ, nơi đã đặt xác Người, hoàn toàn trống rỗng; thế rồi một sức sống mới kỳ lạ xuất hiện và lan tỏa. Như vậy Phục sinh gồm cả hai phần: ‘ngôi mộ trống’ và ‘cuộc sống mới’ bởi Chúa Cha.
Ngôi mộ trống: Thoạt đầu tôi vẫn nghĩ ngôi mộ trống chỉ là một chi tiết nhỏ không có gì quan trọng. Nhưng rồi khi thấy cả bốn Phúc âm đều đề cập tới quang cảnh này cách rành rẽ tới từng chi tiết – đặc biệt Phúc âm Gio-an – tôi nhận ra nó phải có một ý nghĩa nào khác sâu sắc hơn hẳn một sự kiện vật thể đơn thuần. Đúng vậy, Ngôi mộ trống tượng trưng cho cả một khoảng cách biệt lớn lao và sắc nét giữa một Giê-su đã chết và một Giê-su Ki-tô với sự sống mới trong Thánh Thần. Ngôi mộ trống là biểu hiện sự khác biệt giữa một nhân loại chết trong tội và một nhân loại bừng sống trong tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Sự Vượt Qua của Đức Ki-tô không chỉ xóa tội, vượt qua tội lỗi (theo cách nói bình dân chúng ta thường dùng), mà là ban cho một sự sống hoàn toàn mới mẻ và kỳ lạ. Ki-tô hữu chúng ta quen gọi sự sống này là ‘sự sống của con cái Chúa’. Nếu hiểu đúng nội dung “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” mà Đức Giê-su đề cập tới trong cuộc đối thoại với Ni-cô-dê-mô, thì ta có thể coi ‘ngôi mộ trống’ như thời kỳ thai nghén chờ ngày cho chào đời một tạo vật hoàn toàn mới, như nhiều lần Phao-lô đã ví von.
Cuộc sống mới: Phục sinh thường được hiểu là sống lại, là trở lại từ cõi chết. Không hẳn chỉ có thế, hay nói cách khác, còn hơn thế nữa. Phục sinh đúng hơn là sinh lại, là đón lấy sự sống mới trong tình yêu xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Giê-su phục sinh, trong nội dung này, quả là một A-đam mới, là người đầu tiên ‘được sinh ra một lần nữa trong Thần Khí’ (Ga 3:3-8). Chắc chắn Phao-lô đã luôn hiểu Phục sinh theo nội dung này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Ngắn gọn hơn Phao-lô khảng định: “Nếu đã cùng chết với đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Như thế, sống lại từ cõi chết chỉ là phụ, là nói theo cách tuần tự thời gian; điều chính yếu và quan trọng hơn là cuộc sống mới trong Thần Khí. Phục sinh không đơn thuần là chỗi dậy, ra khỏi mồ vào ngày thế tận; Phục sinh phải xảy ra trong đời Ki-tô hữu hàng ngày, đó là tiến trình làm chết mình (ngôi mộ trống rỗng) để được làm đầy với sức sống thần linh mới. Sống Ki-tô hữu là sống Ki-tô Phục sinh, sau khi đã chết cùng Ki-tô thập giá; “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1:21) phải được hiểu trong nội dung đó.
Trong tư cách một linh mục – tu sĩ, tôi thấy sống phục sinh đối với riêng mình là cả một chương trình và đòi hỏi; và trong hai điều kiện để có thể sống phục sinh, điều kiện mà tôi phải chủ động làm chính là làm trống rỗng con người mình. Thật là cả một thách đố, nhất là khi tôi đã tập cho có thói quen vun đắp con người mình nhiều quá!
Lạy Chúa Phục Sinh, Chúa đã chết trên thập giá, đã tự hủy mình ra như không nơi ngôi mộ trống, nhưng đã được Chúa Cha sinh lại trong Thần Khí cho cuộc sống nghĩa tử mới. Một khi trở thành Ki-tô hữu, chính con cũng đang không ngừng thực hiện các bước đó cho riêng mình. Xin cho con thực thi được trọn vẹn hơn khẩu hiệu con chọn ngày nhận tác vụ linh mục: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô”. Xin cho con không thấy sợ tình trạng ‘ngôi mộ trống’, vì qua giai đoạn đó con mới có được sự sống mới hoàn toàn. A-men.
.
Tam Nhật Vượt Qua như một tam giác, mỗi cạnh mang một sắc màu riêng: Vàng, Tím, Hồng. Thứ Năm Tuần Thánh hân hoan với niềm vui, có sắc Vàng; Thứ Sáu Tuần Thánh ảm đạm u sầu, có sắc Tím; đêm Thứ Bảy Tuần Thánh và Chúa Nhật rộn rã nỗi mừng, có sắc Hồng. Màu sắc khác nhau nhưng vẫn hòa quyện trong một tổng thể kỳ diệu.
Theo tiếng Do Thái, chữ פֶּ֥סַח (PesaH) nghĩa đen là “vượt qua”, có nghĩa bóng là “bỏ qua” hoặc “tha thứ”. Chữ phải có nghĩa, mà nghĩa này thật thâm thúy!
Đêm nay là ranh giới tử – sinh, làn ranh mong manh giữa bóng tối và ánh sáng, giữa sự chết và sự sống. Khoảng sầu thương đã qua, nỗi lo sợ đã hết, vì chúng ta được Chúa Giêsu dẫn lối vượt qua vùng chết chóc để vào miền hằng sinh ving quang. Niềm hạnh phúc quá lớn, vui mừng khôn tả: Alleluia!
Trình thuật St 1:1. 26-31 nhắc lại sự sáng tạo của Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Ngài sáng tạo trời đất, Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài, có nam có nữ, và trao quyền làm bá chủ mọi loài. Ngài căn dặn: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất”. Được trao quyền thì cũng phải có trách nhiệm. Thiên Chúa bảo con người: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏxanh tươi để làm lương thực”. Mọi thứ đều rất tốt đẹp!
Vâng, “lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:4-6). Tác giả Thánh Vịnh đã sung sướng thốt lên: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. Từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người” (Tv 33:12-13). Tuy nhiên, chúng ta đừng quên cầu xin liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Các bài đọc đêm nay dẫn chúng ta đi qua chẵng đường lịch sử cứu độ. Trình thuật St 22:1-2. 9-13. 15-18 cho biết về đức vâng lờ tuyệt đối của Tổ phụ Áp-ra-ham. Chỉ có đứa con một yêu dấu là I-xa-ác, vậy mà Thiên Chúa lại bảo ông dâng nó làm lễ toàn thiêu trên một ngọn núi tại xứ Mô-ri-gia. Ông vẫn vâng lời, không so đo, không thắc mắc.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông dựng bàn thờ, xếp củi lên, trói I-xa-ác lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Khi ông đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình, sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi tên ông và bảo: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờTa biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.
Sứ thần gọi ông một lần nữa và cho ông biết lời thề của Đức Chúa: “Bởi vì ngươi đãlàm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Thật tuyệt vời! Có Chúa là có tất cả: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tuy nhiên, không phải khơi khơi mà được Chúa là gia nghiệp, mà phải trải qua gian khổ lắm. Đó là lẽ tất nhiên thôi. Có công khó thì mới được lãnh thưởng.
Có Chúa thì “tâm hồn mừng rỡ, lòng dạ hân hoan, và thân xác cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:9). Tại sao? Tác giả Thánh Vịnh giải thích: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:10-11).
Tiếp theo là phép lạ tại Biển Đỏ (Xh 14:15–15:1). Đức Chúa bảo ông Môsê cầm gậy, giơ tay lên rẽ nước biển ra cho con cái Ít-ra-en đi qua. Còn Thiên Chúa làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Họ tiến vào theo sau, thế là cả Pharaô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh đều bị chôn vùi trong biển nước.
Chiến công hiển hách. Toàn dân được “mở mắt” nên một lòng kính sợ và tin vào Đức Chúa, tin vào ông Môsê, tôi trung của Người. Bấy giờ ông Môsê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Đức Chúa: “Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc, Người làChúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Người là trang chiến binh, danh Người là Đức Chúa! Xa mã Pharaô, Người xô xuống lòng biển, tướng dũng với binh hùng chết chìm trong Biển Sậy. Vực thẳm vùi lấp chúng, chúng chìm xuống nước sâu chẳng khác nào hòn đá.6 Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh. Tay hữu Ngài, lạy Chúa, đã nghiền nát địch quân” (Xh 15:1-6. 17-18).
Chúng ta cũng như dân Chúa xưa, như kiểu người Việt ví von: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, khi nóng thì cứ trái tai mà sờ”. Dù chúng ta bội bạc, nhưng Thiên Chúa vẫn không chấp lách, yêu thương hết lòng. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao?” (Rm 6:3). Có lẽ chúng ta không thể trả lời vì không dám trả lời. Thánh Phaolô trả lời thay chúng ta: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đãđược sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4).
Không chỉ vậy, chúng ta còn được “nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết” và “chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6:5). Quả là kỳ diệu vô cùng! Và còn hơn thế nữa: “Con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:6-7).
Niềm tin của chúng ta rạch ròi chứ không mơ hồ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Niềm tin đó của Công giáo cũng không hề mù quáng hoặc mê tín như người vô thần tưởng. Thánh Phaolô còn cho chúng ta biết thêm: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờNgười chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:9-11).
Ân sủng này nối tiếp ân sủng khác, vì thế chúng ta phải luôn tự nhủ: “Hãy tạ ơn Chúa vìChúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1-2). Đêm nay là Đêm Cực Thánh, xoay tròn một “vòng tử – sinh”, với kỳ công của Thiên Chúa làm nhãn tiền: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23).
Trời buổi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh đang nắng sáng bỗng tối sầm lại khi Chúa Giêsu trút hơi thở. Trời đêm nay đang tối tăm chợt bừng sáng khi Chúa Giêsu trỗi dậy. Chắc chắn chẳng ai có thể tới gần vì quân lính gác cửa mộ cẩn mật, kẻ nào dám mon men tới là chết chắc. Thế nhưng chính họ, những kẻ đã hả hê cười nhạo hôm trước, mà nay vẫn không thể giữ Chúa Giêsu nằm im trong mộ đá đó thêm một giây nào nữa.
Trình thuật Mt 28:1-10 cho biết: Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy vậy, bọn lính canh khiếp sợ, run rẩy, chết ngất đi.
Thiên thần liền bảo các phụ nữ: “Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”.
Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chắc chắn họ đã tin Đức Giêsu phục sinh qua lời của thiên thần, và họ chạy về báo tin cho môn đệ hay. Dọc đường, họ được Đức Giêsu đón gặp và nói: “Chào chị em!”. Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”. Đó cũng là sứ vụ Ngài truyền cho mỗi chúng ta hôm nay.
Các phụ nữ được Chúa Giêsu ưu tiên vì họ là những người đầu tiên được gặp Chúa-Giêsu-phục-sinh và được trở nên nhân chứng loan báo sự kiện trọng đại Chúa phục sinh. Thật là hạnh phúc cho nữ giới! Ước gì cuộc đời mỗi chúng ta là những vần thơ tình phục sinh và được phổ nhạc thành Khúc Khải Hoàn Ca Alleluia ở mọi nơi, mọi lúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Quả thật, chẳng dễ chút nào đâu, nhưng nếu thực sự cố gắng thì sẽ được, vì chính Chúa-Giêsu-phục-sinh đã hứa với chúng ta: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và hằng sinh, xin giúp chúng con biết sống làm chứng về Chúa-Giêsu-phục-sinh giữa cuộc đời hôm nay, trong mọi hoàn cảnh. Xin giúp chúng con can đảm cùng Con Một Ngài vượt qua biên độ chết –sống, và luôn biết ca lên bài Alleluia ngay trong những bước đời gập ghềnh của chúng con trên hành trình lữ hành trần gian này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
.
Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta không ngừng được Mẹ Giáo hội nuôi dưỡng bằng bàn tiệc Lời Chúa. Bàn tiệc ấy được dọn sẵn một cách rất phong phú nhất vào chính Đêm Canh Thức hôm nay. Nếu Đêm Canh Thức hôm nay là “mẹ các Đêm Canh Thức” như Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma số 20 viết, thì bàn tiệc Lời Chúa được chuẩn bị cho Đêm Canh Thức hôm nay chính là “phần căn bản” (QCTQ số 21). Chắc chắn không có một nghi thức phụng vụ nào mà bàn tiệc Lời Chúa lại dồi dào và phong phú như đêm hôm nay. Có tới tất cả chín bài, bẩy bài Cựu Ước và hai bài Tân Ước. Thường thì Giáo hội khuyên cộng đoàn dân Chúa khi cử hành Đêm Canh Thức nên đọc đủ cả chín bài. Tuy nhiên, Giáo hội cũng tiên liệu nếu vì “hoàn cảnh mục vụ đòi buộc, có thể bớt số bài đọc Cựu Ước”. Bẩy bài đọc Cựu Ước, ít nhất cũng phải đọc ba bài. Trong trường hợp “gấp rút” thì đọc ít là hai bài Cựu Ước; trong hai bài đó, “không bao giờ được bỏ bài trích sách Xuất hành chương 14”, tức là bài số ba.
Với những quy định cụ thể như trên, ta thấy rõ việc đọc bài thánh thư và bài Tin Mừng là không thể bỏ. Thánh thư là bài trích thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma (6,3-11) nói về việc Đức Kitô phục sinh, nguồn sự sống mới cho các kitô hữu. Bài Tin Mừng dầu thay đổi theo năm phụng vụ, nhưng đều sử dụng đoạn nói về sự kiện Chúa phục sinh vào “ngày thứ nhất trong tuần”. Còn bẩy bài Cựu Ước, hai bài trích trong sách Sáng thế (bài một và bài hai), một bài trích trong sách Xuất hành (bài ba), bốn bài còn lại trích trong các sách tiên tri (bài bốn và năm trong sách tiên tri I-sa-ia, bài sáu trong sách tiên tri Ba-rúc, bài bẩy trong sách tiên tri Ê-dê-ki-en). Bẩy bài này nên được đọc cả. Nếu phải lược bỏ vì “hoàn cảnh” thì cũng phải giữ lại ít là ba, còn nếu chỉ có thể đọc hai bài vì lý do “gấp rút” thì không bao giờ được bỏ bài số ba trích trong sách Xuất hành. Hy vọng trong Đêm Canh Thức, chúng ta không bao giờ phải sử dụng phương sách “gấp rút” này.
Tất cả những quy định đó cho thấy tầm quan trọng của việc lắng nghe Lời Chúa trong Đêm Canh Thức. Chính Lời Chúa là thành phần “căn bản” của Đêm Cực Thánh. Qua việc cẩn thận chọn lựa các bài đọc Kinh Thánh (nhất là các bài Cựu Ước), Giáo hội như muốn chính mình thinh lặng để một lần nữa cảm nghiệm rõ hơn sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Bắt đầu từ sự kiện sáng tạo, tuyển chọn, giải thoát, cho đến những thất trung- tha thứ và giao ước mà chúng ta quen gọi là lịch sử thánh hay lịch sử cứu độ. Chúng ta đừng quên Giáo hội đã bước vào tuần thánh từ Chúa nhật Lễ Lá, đã bước vào Tam Nhật Vượt Qua, tức là đã bước theo Chúa Giêsu trong vinh quang của ngày vào thành thánh, cũng đã cảm thấy “xao xuyến” kinh hoàng và “lo buồn” khủng khiếp trước những giông tố của kiếp người, cũng đã “gục đầu tắt thở” với Thầy Chí Thánh và đang chìm vào bóng tối của nấm mồ. Tất cả sẽ rơi vào bế tắc, tất cả sẽ trở thành phi lý, tất cả sẽ là con số không. Bao nhiêu lý thuyết, bao nhiêu bài học, bao nhiêu giá trị sống, bao nhiêu hy vọng… giờ đây dường như cũng đã “bị an táng” trong nấm mồ?! Thế mới có người nói: “chết là hết chuyện”. Cuộc đời của Chúa Giêsu rốt cuộc cũng đi tới nấm mồ. Bao nhiêu kẻ thời đó cũng đã hả hê nghĩ rằng: “thế là hết chuyện”. Nhưng Thiên Chúa, Cha thật của Đức Giêsu đã không để cho dấu chấm hết kết thúc ở trên nấm mồ. Chính lúc con người tưởng rằng cuộc đời chỉ là một trò phi lý, một mớ bòng bong vô vọng, Thiên Chúa ra tay can thiệp để mở toang cánh cửa hy vọng, để một luồng sáng mới soi chiếu cho nhân loại. Luồng ánh sáng này đã được trao ban, nhưng nhân loại đã nhiều lần khép lại hoặc đã bưng kín. Giáo hội đã đón nhận ngay được ánh sáng này nên đã thinh lặng ngồi ôn lại dòng lịch sử thánh, một lịch sử bắt nguồn từ Thiên Chúa và sẽ đưa mọi sự về với Ngài. Giáo hội cảm nhận thật rõ kinh nghiệm này khi lắng nghe lại lịch sử thánh, nhất là giai đoạn lịch sử kể lại sự kiện Thiên Chúa uy quyền ra tay giải phóng dân Chúa ra khỏi đất Ai-cập. Đây là một sự kiện mà dân Chúa sẽ không bao giờ được phép quên. Dân Chúa sẽ thấy như trước mắt quyền năng của một Thiên Chúa trên mọi lịch sử và mọi sức mạnh. Ngài chính là Chúa và là Chủ Tể. Và giờ đây, Giáo hội là dân thánh mới đã nhận ra chính Vị Thiên Chúa đó, Đấng đã ra tay lật tung nấm mồ, nơi an nghỉ của “Con Yêu Dấu” và dùng Quyền Năng (Thánh Thần) để phục sinh Người. Ánh sáng phục sinh đã ùa vào thế gian như một sức mạnh vũ báo, trả lại niềm hy vọng bất diệt cho con người. Ha-lê-lui-a từ nay sẽ trở thành một tiếng khải hoàn ca bất tận, sẽ được hát, được ngân vang mãi mãi để xóa tan đi những bóng đêm lạnh giá vô vọng của kiếp người. Ha-lê-lui-a, Chúa đã chiến thắng tử thần. Ha-lê-lui-a, Chúa đã phục sinh. Amen.
.
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.
- Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn họ đi về xứ Ga-li-lê để gặp Người.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, bắt đầu đêm của một ngày mới là ngày thứ nhất trong tuần.
+ Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cũng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt và gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong những người đầu tiên đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1 ; Mt 28,1 ; Mc 16,1 ; Lc 24,10). Trước đó bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40). Bà có mặt khi mai táng Đức Giê-su và đã quan tâm tới nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc các bà đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên. Điều này cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Giáo Hội sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian an táng Đức Giê-su quá ngắn và việc an táng được thực hiện vội vã, nên thiếu việc xức dầu thơm ướp xác Đức Giê-su. Do đó, mấy phụ nữ này phải mua dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay ngày thứ nhất trong tuần được gọi là Chúa Nhật. Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc là khoảng 6 giờ sáng.
– C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là vị thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.
– C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một phàm nhân nữa.
– C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất có đông dân ngoại.
– HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: ông La-da-rô, con trai bà góa thành Na-in hay con gái ông Gia-ia có giống với thân xác loài người sau này sẽ sống lại vào ngày tận thế không?
– ĐÁP:
+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã chứng minh khi cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng tự chứng minh có xương thịt mà các ông có thể xem và sờ thấy được. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiên của các ông (x Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà lại tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh hiện diện ở khắp nơi: Dù không có mặt nhưng Người vẫn nghe được yêu cầu của Tô-ma (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng không thể xác định được Người đang ở nơi nào trên trời (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết và đã được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được mang đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, họ được bước vào một cuộc sống mới vô cùng cao quí, vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
- CÂU CHUYỆN: CON CÁNH QUÝT.
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là Sơ-siu đơ Mi-ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tăng đùa giỡn với nhau trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông ngồi, và nằm im như chết. Đơ Mi-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Mi-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy nó như đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng từ từ lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn kia. Đơ Mi-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
- SUY NIỆM:
– AI TRONG CHÚNG TA cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết đến tình trạng sống lại chưa đủ 3 ngày sau đó. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi sống lại và đã gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó…
– “TÔI TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI”: Đây là lời tuyên xưng đức tin của các tín hữu trong kinh tin kính. Vào ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ trở nên giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, nghĩa là có tính siêu việt và thiêng liêng. Trời Mới Đất Mới sẽ xuất hiện khi Đức Giê-su, Vua Mê-si-a ngự đến phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế. Ngày ấy mọi người đều được Thiên Chúa cho sống lại. Nhưng những ai tin và sống đức tin qua hành động yêu thương phục vụ người đói khát, ở trần, đau yếu, ở tù… thì sẽ được Vua Thẩm Phán Giê-su xét xử khoan dung và ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những kẻ cố chấp trong sự bất tín, ăn ở thất nhân ác đức và cam tâm làm tay sai cho ma quỉ, thể hiện qua thái độ ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, không sẵn lòng giúp đỡ và phục vụ tha nhân… thì sẽ bị phạt trong lửa hỏa ngục đời đời, nơi dành sẵn cho ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Do đó, sự thưởng phạt sau này có liên quan mật thiết với cuộc sống hiện tại mà chúng ta đang sống. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để được liệt vào hàng ngũ các con chiên ngoan và xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc nước trời đời đời?
- THẢO LUẬN: 1) Bí Tích Rửa Tội do Đức Giê-su lập gồm hai yếu tố: Một là tẩy rửa bằng sự dìm mình chúng ta trong dòng nước sông, và hai là tái sinh chúng ta nên con cái Thiên Chúa nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta tuy đã chịu phép Rửa tội, nhưng đã thực sự được tái sinh làm con yêu dấu của Thiên Chúa chưa? 2) Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong!
– NHƯNG LẠY CHÚA, con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi… Tuy nhiên, trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông. Và quả thật, nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để cứu độ loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa ở đời sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT LỄ PHỤC SINH
——-
Trong thời sơ khai của Giáo Hội, những lời giảng dạy của các tông đồ mang nội dung chính yếu là sự phục sinh của Đức Giêsu. Nội dung giảng dạy này được gọi là Kerygma, Đó cũng là chủ đề trọng tâm các cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô với người Do Thái cũng như với dân ngoại. Tại Xêdarê, ông Phéttô báo cáo vua Ác-ríp-pa nhân dịp vua đến thăm: “Họ chỉ tranh luận với ông ta về một số vấn đề liên quan đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một ông Giêsu nào đó đã chết, mà Phaolô quả quyết là vẫn sống” (Cv 25, 19). Giảng về Đức Giêsu phục sinh cũng là một điều gây vấp phạm đối với cử tọa, như trường hợp ở Athena, vừa khi thánh Phaolô nói đến Chúa Giêsu sống lại, thì nhiều người nhạo cười và bỏ về (x. Cv17, 22-32).
Thực ra, khi Chúa bước ra khỏi mồ, không có môn đệ nào chứng kiến. Ngôi mộ trống là khởi điểm cho những câu hỏi được đặt ra, khiến họ hồi tưởng quá khứ để suy tư những lời Chúa đã nói trước. Thế rồi, họ được gặp Chúa phục sinh. Lúc đầu họ còn ngờ vực, nhưng rất nhanh sau đó, họ đã nhận ra Người. Họ còn được đàm đạo và ăn uống với Người. Nhờ đó mà họ có cảm nhận rất sâu sắc về Đấng Phục sinh.
Sự phục sinh của Chúa giúp các tông đồ kiên vững lòng tin vào Thày mình. Trường hợp hai môn đệ trên đường Emmaus là một minh chứng. Trước khi gặp Chúa, các ông mệt mỏi, thất vọng và đang tính bỏ cuộc, nhưng sau khi nhận ra Thày mình, họ tìm lại nghị lực, vui tươi, phấn khởi và lên đường về Giêrusalem ngay trong đêm ấy. Biến cố phục sinh cũng giúp cho họ hiểu hơn về giáo huấn của Chúa Giêsu. Quan niệm của họ về Chúa Giêsu được nhìn với nhãn giới “hậu-phục-sinh” và nhờ đó, họ có một chân dung xác thực về Đấng Thiên Sai.
Chính chứng từ của các tông đồ đã làm nên sức mạnh của cộng đoàn tín hữu tiên khởi và đem lại hiệu quả nhanh chóng của công cuộc truyền giáo. Những người đương thời với tông đồ không nhìn thấy Đấng Phục Sinh, nhưng qua cử chỉ, lời nói và nhất là qua niềm xác tín của những người dân chài chất phác này, họ thấy được Chúa Giêsu đang hiện diện. Họ thấy rằng sự kiện một người đã chết rồi sống lại không thể lý giải được bằng lý trí, nhưng cũng không phải là chuyện tầm phào, vì chứng nhân sẵn sàng lấy mạng sống của mình để làm chứng. Đối diện với các nhà chức trách đạo cũng như đời, những người dân chài hiền lành này lại rất can đảm, không phải bằng một thứ lý luận uyên thâm, nhưng rất đơn giản và chắc chắn: “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20).
Những nhân chứng phục sinh là ai? Đầu tiên, phải kể đến Maria Mađalêna, một người đã nghe lời Chúa giáo huấn mà rũ bỏ quá khứ tội lỗi. Kế đến là những tông đồ, những người đã cùng sống với Chúa, đã chứng kiến những phép lạ Người làm. Các tông đồ là những người dân chài ít học. Họ không lý luận uyên thâm thông thái. Họ chỉ nói điều họ đã nghe, đã thấy và đã cảm nhận.
Khi mừng lễ Phục sinh, tôi được mời gọi trở thành nhân chứng của sự kiện Chúa sống lại. Tuy vậy, để có thể làm chứng về Đấng Phục Sinh, tôi phải biết Người, phải gặp Người và cảm nhận được sự hiện diện của Người trong đời tôi. Tôi không thể làm chứng về một người hay một sự việc mà tôi không biết chắc. Làm nhân chứng cho Đấng Phục Sinh hôm nay đôi khi phải chấp nhận là kẻ “ngược dòng” trong một xã hội xô bồ, phức tạp. Các tông đồ và các thánh tử đạo sau này đã những người dám đem mạng sống mình để “đặt cược” cho lời chứng về Chúa Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại. Một chứng từ được cam kết bằng mạng sống sẽ có tính thuyết phục mạnh mẽ và làm cho người khác tin. Xác tín nơi Đấng Phục Sinh, các tông đồ khi bị đánh đòn và bạc đãi, lại “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”(Cv 5,41).
“Bà Maria ơi, trên đường bà thấy những gì? Xin kể cho chúng tôi nghe” (Ca Tiếp liên lễ Phục Sinh). Ngày hôm nay, xung quanh tôi, có biết bao người đang đặt câu hỏi này cho tôi. Tôi đã thấy những gì? Tôi có gặp Đấng Phục Sinh giữa đời tôi hay không? Sự hiểu biết Chúa của tôi có thâm sâu đến mức tôi có thể kể cho mọi người nghe về Người? Hay tôi chỉ biết Chúa như một nhân vật của huyền thoại hoặc một nhân vật của lịch sử. Sự hiểu biết Chúa phải dẫn tôi đến việc biến đổi canh tân cuộc đời, để tôi được sống lại với Chúa. Nói cách khác, chính Chúa Phục Sinh sống trong tôi và làm đổi mới tận căn cuộc đời tôi, đến mức “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Đối với những người đang đau khổ vì bệnh tật, vì đói nghèo, vì bất công, tôi làm thế nào để kể cho họ nghe về Đấng Sống Lại đã đến nâng đỡ hai môn đệ trên đường Emmaus, giúp họ tìm lại nghị lực và niềm tin? Với những người đang sống trong chia rẽ bất hòa, tôi làm thế nào để kể cho họ nghe về Đấng Sống Lại đang yêu thương tha thứ? Chứng từ phục sinh phải đến từ cuộc sống an bình, vui tươi và thấm đượm ân sủng.
Hiểu được như trên, mỗi tín hữu sẽ trở thành một nhân chứng của Đấng Phục Sinh giữa đời thường. Họ sẽ làm lan tỏa đến mọi môi trường cuộc sống niềm vui của Tin Mừng và tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại.
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình, nhưng chết rồi đi đâu mãi là câu hỏi của con người qua mọi thời đại. Con người vẫn trăn trở, thắc mắc. Có biết bao tôn giáo, có biết bao các hiền sĩ đã mải công đi tìm câu trả lời. Thánh Phao-lô cũng từng đối diện với câu hỏi đầy hóc búa ấy. Qua đây, thánh Phao-lô đã cho chúng ta hiểu thế nào về sự sống lại. Ngài nói:
“Khi anh em gieo giống, nếu hạt giống không chết đi thì sẽ không bao giờ nẩy mầm sống lại, cây non từ hạt giống mọc lên trông khác hẳn hạt lúc gieo xuống đất. Thiên Chúa cho nó hình thể theo ý Ngài, mỗi loại hạt giống sinh ra một loại cây; sự sống lại của người chết cũng thế, chết là thân thể hư nát nhưng sống lại là thân thể không hư nát, chết là thân thể xương thịt nhưng sống lại là thân thể thần linh, vì đã có thân thể xương thịt tất nhiên cũng có thân thể thần linh. Tôi xin tỏ cho anh em huyền nhiệm nầy, chúng ta sẽ không chết hết nhưng tất cả đều sẽ biến hóa trong giây lát, trong chớp mắt, khi có tiếng kèn cuối cùng, vì kèn sẽ thổi. Người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta, những người còn sống sẽ được biến hóa” (1 Cor 15, 35-52)
Hóa ra sự sống lại của con người cũng giống như một hạt giống được gieo xuống đất, mục nát chết đi thì sẽ trồi lên một cây mới. Sự sống của cây mới chắc chắn sẽ khác với hạt giống khi gieo xuống. Cây lúa khác với hạt lúa. Con người sau khi sống lại cũng hoàn toàn đổi mới. Vì mang thân xác thần linh thì hoàn toàn khác với thân xác hữu hạn trần thế. Khi Chúa Giê-su sống lại trên thân xác của Ngài vẫn còn những vết sẹo. Ngài đã đề nghị Tô-ma hãy xỏ ngón tay vào những dấu đinh trên thân thể Ngài. Nhưng đó là một thân xác hoàn toàn mới, nên các môn đệ, các người phụ nữ thân tín cũng không nhận ra Người. Đó cũng là điều sẽ xảy ra cho tất cả mọi người như lời Chúa đã dạy: “Trong giây lát, trong chớp mắt sẽ có tiếng kèn cuối cùng vì kèn sẽ thổi, người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta những người còn sống sẽ được biến đổi nên mới hơn”.
Tuy nhiên, Thánh Gioan còn cho biết: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Thiên Chúa sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau hết nước mắt khỏi mắt họ; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.
Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.
Chúa Giê-su hôm nay đã bước qua cuộc sống tạm đời này để trở về cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Sự sống lại của Ngài là niềm hy vọng lớn lao cho kiếp người chúng ta. Từ nay chúng ta không còn lo lắng về bước đường tương lai “chết rồi đi đâu?”. Từ nay chúng ta có một con đường để đi, để tiến về quê trời. Đó là con đường Giê-su. Con đường vâng phục thiên ý Chúa Cha. Con đường yêu thương và phục vụ cứu đời.
Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tủy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong Chúa vĩnh viễn.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau chúng ta cũng được sống lại với Người. Amen.
Khó khăn của đời người thường qui về hai mối : túng thiếu vật chất, và bất ổn về phạm vi tinh thần; mất mát hơn cả là “họa” không có người cảm thông, “phúc” không có người chia sẻ ! Nhớ thương người thân yêu đã qua đời, ta viếng mộ, thắp nhang cầu nguyện, và như thế chết và sống vẫn có hiệp thông. Nhưng điều gì đã xảy ra, nếu khi thăm viếng, người thân của ta không còn xác mà chỉ là “ngôi mộ trống” ! Một tử tội mang tên Giêsu đầy bí ẩn đối với giới chức trách tôn giáo, do họ chủ trương : giết lầm hơn tha lầm, họ dè chừng ông Giêsu đến độ, sau khi giết chết, họ đã cẩn thẩn đặt lính gác nơi đã an táng ông.
Những nghịch lý và mâu thuẫn nơi cuộc sống, nơi tâm hồn, khiến không ít người hồi hộp, ưu tư, khó hiểu : Đức Giêsu nhiều tài năng, nhiều đức độ, từng thu hút đám đông, từng làm phép lạ, nay bị vu khống, kết án chết, ông chỉ im lặng, chấp nhận chết thảm thương !
Sự sống trào dâng bắt đầu từ những điều bé nhỏ, tầm thường, sự sáng luôn tác động theo dây chuyền, từ đơn giản tới phức tạp. Các phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay chỉ quan tâm đến việc xức thuốc thơm cho “xác Thầy”, các môn đệ tán loạn, mỗi người một phương, các ông mong sao đừng có gì rắc rối xảy ra với họ nữa. Nhóm 12, các ông vừa sợ, vừa buồn, chỉ khao khát có được hai chữ bình yên. Khi Phêrô và Gioan thấy ngôi mộ trống trơn, hai ông phân vân, bối rối, tâm trí mới sáng lên chút hy vọng, vì sao kẻ trộm xác Thầy lại có thời gian sắp xếp dây băng và khăn liệm gọn gàng thế ?
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta hôm nay thấy mình quá quen với chuyện Chúa Phục Sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế, chúng ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất hôm đó. Quả thật, tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Thầy đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Nếu có nhớ lời Thầy dạy, các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo, Con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ là cùng. Các phụ nữ đạo đức lúc bấy giờ nhớ thương Thầy, cùng lắm là các bà nghĩ Đức Giêsu là Vị Thầy hiền hậu, chắc Thiên Chúa sẽ đền bù xứng đáng cho những việc làm của Thầy !
Tâm lý tự nhiên, khi bị ám ảnh bởi cái chết đau thương, người ta dễ bị sa lầy trong u buồn, tiếc xót, không còn khả năng để hy vọng và vui sống. Đối diện với “ngôi mộ trống”, ít nhiều cũng là động lực để tình cảm, lý chí của họ phải quan tâm đến sống – chết. Khi nhìn vào Đức Giêsu ở thập giá, các tông đồ, các chức sắc tôn giáo, dân chúng, họ có thể nhìn thấy gì ? Dám chắc những người thương Đức Giêsu sẽ nghĩ : sao Thiên Chúa lại im lặng làm thinh với kẻ độc ác; người chống đối Đức Giêsu chỉ nghĩ tới, thì ra ông Giêsu cũng là người bình thường….
Chúng ta không thể nhìn và không thể hiểu được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Người, nếu không qua tập luyện làm môn đệ của Chúa. Các phụ nữ đối diện với “ngôi mộ trống”, “sự sốg bừng lên” nên họ đã mau thông báo cho các ông đệ tử của Đức Giêsu. Các tông đồ, đối diện với “ngôi mộ trống”, không khỏi phân vân, vì các ông chưa đủ kinh nghiệm về kẻ chết sống lại. Các chức sắc tôn giáo, đám đông dân chúng hoang mang, khi hay tin “ngôi mộ trống”, vì suy nghĩ của con người chỉ hiểu được những gì cân đo đong đếm thuộc phạm vi trần thế.
Kinh nghiệm tiền nhân nói rằng : “cây thẳng lên, nhờ được uốn; người khôn lớn, nhờ công khó mẹ cha” ! Niềm vui Phục Sinh tác động đến các phụ nữ do lòng yêu mến, đã biết ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm. Niềm vui Phục Sinh thúc giục các tông đồ mạnh dạn khám phá, không được buông xuôi tuyệt vọng. Các phụ nữ, các tông đồ được lớn lên nhờ tình yêu thương do Thầy Giêsu chăm sóc vun trồng, họ được niềm vui Phục Sinh chiếu tỏa khởi đi từ “ngôi mộ trống” !
Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, là những cái chết và từ bỏ liên tục : chết đi cho tội lỗi, ích kỷ…, qua đó niềm vui Chúa Phục Sinh tỏa chiếu, giúp tâm hồn và cuộc sống chúng ta thực sự được biến đổi. Chúng ta đừng sợ chết đi điều phải chết, đừng lo phải xóa đi điều cần tẩy xóa. Đừng sợ bị mục nát hay bị tảng đá to che chắn đời mình. Ước gì mọi “ngôi mộ tâm hồn” của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu được mở tung để sự sống bừng dậy trong chúng ta. Amen.
Chúng ta họp nhau nơi đây để cử hành và tuyên xưng niềm tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh. Cho đến ngày nay, niềm tin vào Chúa phục sinh là niềm tin chỉ có ở nơi Kitô giáo chúng ta và là một điều khó chấp nhận đối với nhiều người. Khi nói chuyện với những người ngoài Kitô giáo, có thể họ dễ dàng chấp nhận hệ thống giáo lý và luân lý của Kitô giáo, nhưng không dễ để chấp nhận niềm tin Phục Sinh, nhiều người còn lấy niềm tin vào Chúa phục sinh của chúng ta để phản bác chúng ta. Niềm tin Chúa phục sinh không chỉ là niềm tin nền tảng mà còn là niềm hy vọng chắc chắn của chúng ta. Để đón nhận được niềm tin này, chúng ta phải đặt mình trong niềm tin và lời chứng của Giáo Hội và của Kinh Thánh. Đó cũng là điều các bài đọc cũng như Tin Mừng mùa Phục sinh muốn nói cho chúng ta.
Câu chuyện trong Tin Mừng Gioan nhấn mạnh : Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Macdala đi ra thăm mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Bà chạy về báo cho ông Simon và người môn đệ Đức Giêsu thương mến và nói : Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Lý chứng đầu tiên của việc Chúa sống lại chính là ngôi mộ trống, không còn xác Chúa nữa. Bà Maria này đã không dễ dàng chấp nhận việc Chúa phục sinh, vì trong tâm hồn bà còn bị phủ một màn tối của cái nhìn tự nhiên : Ai đó đã lấy mất xác Chúa ! Trong lúc lo sợ, hoang mang như thế, bà đã chạy về gặp Simon và người môn đệ Chúa yêu. Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh là bà chạy về với Simon, điều đó có nghĩa là bà không chạy đi, mà là chạy về với Simon, là thủ lãnh của Giáo Hội, là người được Chúa trao quyền đứng đầu trong anh em và là người sẽ có tiếng nói chính thức về biến cố này.
Chúng ta cũng thấy vai trò nổi bật của Simon, Tin Mừng kể lại : Cả hai người cùng chạy ra xem mộ, mặc dầu người kia đến trước, song ông không vào trong mộ, mà nhường bước cho người anh cả là Simon Phêrô vào trước. Cả hai ông đều thấy mộ đã trống, và còn thấy dấu chứng khác của việc Chúa đã Phục sinh, đó là những tấm vải và khăn liệm còn để ở đó. Khăn liệm còn nguyên ở đó : chứng tỏ không phải xác Chúa bị mất trộm, vì nếu có người lấy đi, thì họ sẽ đem cả những tấm vải đó theo, chứ không để lại làm gì. Hơn thế nữa, các ông còn thấy các tấm khăn che đầu, che mặt và những băng vải, không hề bị xáo trộn, mà được gấp lại gọn gàng và để riêng thứ nào vào thứ đó. Như thế, câu nói hồ nghi của bà Maria Macdala : Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, là không có cơ sở.
Tác giá Tin Mừng nói lên cảm nghiệm của các ông rằng : Ông đã thấy và đã tin, tức là các ông đã thấy những dấu chứng đầu tiên này, các ông đã tin rằng Chúa đã sống lại thật và không thể có ai đến lấy trộm hoặc mang xác Chúa đi nơi khác. Tác giả cũng nói thêm : Trước đó, họ chưa hiểu rằng : Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây chính là mấu chốt quan trọng của mầu nhiệm Chúa Phục sinh, đó là phải dựa vào Kinh Thánh, vì Kinh Thánh đã chuẩn bị, đã nói trước và minh chứng về biến cố này. Chúa Giêsu khi còn sống, Ngài cũng đã nhiều lần nói về việc Ngài sẽ bị người ta giết, bị đóng đinh và ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Ngài đã từng dùng quyền năng của mình mà làm cho kẻ chết sống lại, như là một minh chứng về quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài. Dó đó, nếu tin vào Kinh Thánh, thì chúng ta sẽ đón nhận được niềm tin Phục sinh hôm nay.
Bên cạnh đó, Kinh Thánh còn là sách ghi lại lời chứng của các tông đồ về biến cố quan trọng này. Chúng ta lật lại sách Công vụ Tông đồ sẽ tìm thấy những lời chứng mạnh mẽ của Simon Phêrô về việc Chúa Phục sinh : Chúa đã sống lại thật ! Bài đọc một thuật lại bài giảng của Phêrô tại nhà ông Cornêliô. Trong bài giảng này, Phêrô đã tóm lược cả cuộc đời Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài. Thánh nhân còn khẳng định : Như quý vị biết rõ, biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa về Đức Giêsu Nazareth… và chúng tôi xin làm chứng về những việc Người đã làm. Phêrô làm chứng rằng, Chúa Giêsu đã bị người Do Thái giết và treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy và xuất hiện tỏ tường trước mặt những chứng nhân đã được tuyển chọn.
Thánh Phêrô cũng quả quyết rằng : Chúng tôi đã cùng ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Lời chứng này muốn khẳng định rằng Đức Giêsu sống lại thật, sống lại với cả con người bằng xương bằng thịt thật, chứ không phải là một cái bóng. Điều này cho thấy, không phải do các môn đệ ảo tưởng nhìn người này ra người nọ, vì chính các ông đã gặp gỡ, chuyện trò với Ngài, đã ăn uống với Ngài, mặc dù thân xác phục sinh của Chúa không cần phải ăn uống nữa, nhưng đó là cách Chúa làm để củng cố niềm tin cho các tông đồ, và truyền cho các ông phải làm chứng về điều các ông đã thấy. Cũng chính vì thế mà các tông đồ đã dám sống tới cùng điều các ông đã làm chứng và dám chấp nhận cả cái chết để làm chứng cho điều các ông đã thấy và đã tin, vì không ai lại dám chết vì một điều vô lý.
Các tông đồ cũng thấy rằng, các ngôn sứ từ xưa đã nói về Chúa Giêsu và tiên báo về việc sống lại của Ngài, để ai tin vào Ngài thì sẽ được ơn tha tội. Vì thế mà trong thư Côlôsê, Thánh Phaolô đã nói với các tín hữu rằng : Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô, thì hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Việc làm phép nước đêm qua nhắc cho chúng ta nhớ rằng : Nhờ Bí tích Rửa tội, mỗi người khi được dìm trong dòng nước thanh tẩy, tức là chết con người cũ và sống lại với một con người mới, thì lòng trí và đời sống cũng sẽ được đổi mới.
Là những người tin và làm chứng về việc Chúa Phục sinh, chúng ta đã sống như thế nào và làm chứng như thế nào ? Tin vào Tin Mừng Phục sinh, trước hết, chúng ta phải sống trong niềm vui, và để có niềm vui này, thì chúng ta phải có Chúa Phục sinh trong tâm hồn. Nói như Thánh Phaolô, chúng ta phải để lòng trí chúng ta thuộc về thượng giới, tức là chúng ta không thể để cho vật chất, của cải thế gian làm chủ đời ta, và càng không thể để cho nó chiếm hết cả cuộc đời, tâm trí chúng ta được. Trái lại, hãy để cho Chúa Phục sinh cư ngụ và thắp sáng tâm hồn chúng ta. Hãy để cho ánh sáng Phục sinh xua đi những mảng tối trong tâm hồn và những góc tối trong cách chúng ta làm ăn buôn bán, cách chúng ta cư xử với anh em. Hãy để cho mầu nhiệm Phục sinh thúc đẩy chúng ta rũ bỏ những lôi kéo của xã hội, như rượu chè, cờ bạc, đam mê xấu, và hãy để những thời giờ ấy làm những việc tốt, việc có ích cho gia đình, người thân và cho cộng đồng, cho giáo xứ.
Đối với các bạn trẻ, trong môi trường học tập hay nơi công sở, các bạn vẫn thường gặp những câu hỏi chất vấn về đức tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh và về Giáo Hội. Mỗi khi bị thử thách về đức tin như thế, hãy noi theo tấm gương của Maria Macdala, chạy về với Simon Phêrô, tức là chạy về với Giáo Hội, vì Giáo Hội là Mẹ và là Thầy của chúng ta trong đức tin. Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn dạy bảo của Giáo Hội, đừng để những lập luận, những lý thuyết của người đời làm lung lạc đức tin của các bạn, và nhất là đừng chạy ra ngoài để chỉ trích Giáo Hội.
Chỉ những ai tin Chúa Giêsu Phục sinh mới được phục sinh như Ngài. Chúng ta không thể tìm kiếm sự phục sinh và hạnh phúc đời đời nơi con người hoặc những lý thuyết của thế gian. Tin vào mầu nhiệm sống lại, chúng ta không thể cứ sống trong tình trạng chết chóc của tội lỗi và tật xấu, mà phải giũ bỏ tất cả để sống con người mới và còn là người làm chứng đáng tin cho mầu nhiệm Chúa Phục sinh. Chúng ta chỉ có thể trở thành người làm chứng đáng tin khi chúng ta được gặp gỡ Chúa Phục Sinh qua việc cầu nguyện, tâm sự với Chúa, qua Bí tích Thánh Thể và qua chính lời Kinh Thánh mỗi ngày. Khi đó, chúng ta mới có thể nói với mọi người rằng : Chúa đã sống lại thật ! Chính chúng tôi làm chứng về Ngài, chúng tôi đã gặp Ngài.
Cầu chúc cho mọi người trở thành chứng nhân đáng tin của Chúa Phục sinh. Amen.
Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng… mới làm nên chuyện.Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không. Khi sáng tạo vũ trụ,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng không không : “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2). Thiên Chúa vẫn thích khởi đi từ cái không không để tạo dựng và tái tạo.
Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác : Ngày Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan “đã thấy và đã tin”.
Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Tin tức hối hả đưa về khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan vội vã đi kiểm chứng sự việc. Cả hai cùng chạy ra mồ. Tốc độ khác nhau vì khả năng thể lý khác nhau. Phêrô đi vào trong mộ trước và thấy các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Người môn đệ Chúa yêu thương đến mộ trước nhưng lại vào sau. Gioan đi vào bên trong và thấy những băng vải liệm được xếp gọn gàng. Phêrô và Gioan không thấy xác Chúa trong ngôi mộ mở toang.
Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ. Các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say. Sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh. Họ hả hê vui sướng. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui. Xác Ðức Giêsu nằm trong mộ huyệt tối tăm, như hạt lúa mục nát trong lòng đất.
Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết. Không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết, nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.
Phản ứng của Phêrô là thinh lặng. Ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế ? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối. Ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.
Còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”. Gioan thấy gì ? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống. Khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm. Còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu nhiều đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ Lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm. Không rình rang giữa tiếng kèn trống. Không cờ quạt giăng giăng khắp lối. Không tung hô reo hò của toàn dân.
Đức Kitô đã chiến thắng tử thần.Thân thể bằng xương bằng thịt của Người hôm nay đã được “Thần Khí Hoá”. Từ đây, Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Các phép lạ về sự sống lại như con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17), như con gái ông Giaia (Lc 8,40-56), như Lazarô (Ga 11,1-45) là hồi sinh trở về đời sống cũ. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là sống lại từ cõi chết. Người hoàn toàn chiến thắng sự chết. Người trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho nhân loại “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24).
Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Người không mặc lấy một thân xác khác. Thân xác Phục Sinh của Người vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết trên thập giá. Nay thân xác đó được biến đổi. Thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Người được Thần Khí Hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ, cũng cố đức tin, chuẩn bị tâm hồn cho các Tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, các Tông đồ trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.
Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức là trở về đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó. Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng không ai nhận thấy được Người vì họ thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch. Sứ điệp Giới trẻ năm 2015, ĐGH Phanxicô chọn câu Tin Mừng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đại hội Giới trẻ TGP Sài Gòn đã chọn chủ đề “Sống Sạch”. Giới trẻ sống sạch trong Tình Bạn, sạch trong Tình Chúa, sạch trong Thân xác, sạch trong Tâm hồn. ĐGH Phanxicô kêu mời mỗi người trẻ học cách phân định điều gì có thể “làm vẩn đục” tâm hồn của mình và học cách làm cho lương tâm của mình công chính nhạy bén để có thể “nhận định ý Chúa, biết được điều gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Từ đó người trẻ thêm lòng yêu mến Chúa và dấn thân phục vụ. Thánh Gioan “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến“ đi đến niềm tin nhờ lòng yêu mến nồng nàn. Đức Giêsu yêu mến Gioan, và Gioan cũng rất yêu mến Thầy. Gioan vẫn gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì trong cuộc khổ nạn.Chính kinh nghiệm tình yêu đối với Đức Giêsu đã làm cho Gioan tin nhận Đấng Phục Sinh khi nhìn thấy các dấu chỉ; và cũng chính kinh nghiệm này đã làm cho thánh nhân nhận ra “Hài Nhi bọc tả nằm trong máng cỏ“ là Ngôi Lời trở thành xác phàm (Ga 1,14).
Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống. Gioan nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh. Dầu vậy Gioan vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Phần chúng ta không thấy Chúa nhưng thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người. Chúng ta có thể thấy Chúa bằng tâm hồn khiêm nhu, bằng việc thực thi đức ái, sống phục vụ quên mình. Chúng ta có thể gặp Chúa qua nội tâm thanh thản bình an. Đó là những dấu chỉ Đấng Phục Sinh ban tặng.
Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền. Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này?
Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục Sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường…
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
Chuyện kể rằng… Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?”. Các vị lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút “tro tàn”, người thì nói là “chút hài cốt”, người thì nói là “mấy cọng râu”, người thì nói là vật này hoặc vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo trả lời: “Chúa Giêsu của chúng tôi để lại một di sản là NGÔI MỘ TRỐNG”.
Thật kỳ diệu, “ngôi mộ trống trơn” đó lại chứa đựng tất cả. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24:5-6). Lời Đức Kitô nói trước, giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã sống lại thật rồi: “Alleluia! Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế, vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa” (1 Cr 5:7b-8a).
Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.
Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (1). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt.
Một Phêrô hôm nay hoàn toàn khác một Phêrô hôm qua, con người khiếp đảm đã biến thành con người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn rao giảng về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:37-38).
Và ông dẫn chứng cụ thể: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là sự thật của các sự thật, là sự thật hơn cả sự thật, không gì có thể chối cãi.
Thật hạnh phúc vì chúng ta có được đức tin tông truyền và vẫn đang cố gắng sống niềm tin đó. Hôm nay là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình, và hãy xác định lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chúng ta chỉ là con số “không” to lớn, vậy thì không thể không tạ ơn, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:16). Kinh Thánh đã nói: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết” (Kn 2:1). Nhưng chúng ta không phải chết tủi nhục, mà được sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17).
Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”, và xác nhận “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, với lý do vô thường: “Đây là ngày Chúa làm ra – Cùng nhau ta hãy reo ca vui mừng” (Tv 118:24).
Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thì phải thế thôi, không thể khác được, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 8:23). Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải noi gương Ngài, một lòng một dạ chỉ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” mà thôi.
Thánh Phaolô cho biết lý do: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:3-4). Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất nhơ nhớp, hôi thối hơn đống rác, ấy thế mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Chuyện như huyền thoại mà lại là sự thật. Quá đỗi kỳ diệu!
Tuy nhiên, đừng vì thế mà ẢO TƯỞNG, ảo tưởng sinh KIÊU NGẠO, kiêu ngạo sinh CỐ CHẤP, cố chấp thì… “hết thuốc chữa”. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Vì thế, “chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8).
Trình thuật Ga 20:1-9 ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết, đặc biệt là chuyện người ta đi tìm Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe vậy, cả ông Phêrô và chàng Gioan cũng vội vã đi ra mộ. Họ không đi bộ mà chạy. Chắc hẳn họ cũng đang hoang mang, không biết kẻ nào to gan mà đưa thi hài Thầy đi đâu mất tiêu!
Cả hai đều ráng chạy cho mau, nhưng chàng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Rất gọn gàng. Thế thì không thể bị đánh cắp. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế chứ? Chắc chắn chẳng kẻ nào to gan mà lấy trộm xác Thầy được đâu!
Rồi Gioan cũng đi vào theo, chàng đã thấy và đã tin. Trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, không chỉ hết lo sợ mà còn vui mừng khôn tả: Thầy đã phục sinh rồi, alleluia! (2)
Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu và hằng sinh, Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã phục sinh vinh hiển, chúng con vô cùng hạnh phúc, và xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn, đồng thời cũng biết nhiệt thành làm nhân chứng giữa cuộc đời hôm nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(1) Có 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh đứng hàng đầu: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.
(2) Nghe Hallelujah của nhà soạn nhạc Handel (1685-1759): https://www.youtube.com/watch?v=76RrdwElnTU
.
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.(2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2.Ý CHÍNH:
Sau khi chịu chết vào chiều Thứ Sáu, Đức Giê-su đã được hai môn đệ an táng trong ngôi mộ đá. Nhưng đến ngày Thứ Nhất trong tuần, khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na ra thăm mộ đã tỏ ra hốt hoảng khi thấy tảng đá che đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp hai ông Phê-rô và Gio-an cấp báo sự thể. Hai môn đệ bán tín bán nghi cùng chạy ra mộ để xem rõ sự thể. Hai ông thấy ngôi mộ bị mở toang, nhìn vào trong thì thấy khăn liệm vẫn còn, nhưng xác Thầy đã biến mất. Ông Phê-rô im lặng suy nghĩ, đang khi Gio-an “đã thấy và đã tin”: Qua sự kiện xác Thầy biến mất nhưng khăn vải liệm vẫn còn để lại, nên đã suy luận và tin Thầy đã phục sinh.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1: +Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ: Theo Tin Mừng Gio-an, do lòng mến thôi thúc mà chỉ mình bà Ma-ri-a ra thăm mộ để xức dầu thêm cho thân xác mới an táng của Thầy.
-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Khi thấy “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà liền vội vã chạy về nhà Tiệc Ly thông báo sự kiện mồ trống cho hai ông Phê-rô và Gio-an là những người lãnh đạo Nhóm Mười Hai. + Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”: Câu này cho thấy bà không hề nghĩ là Thầy Giê-su có thể đã phục sinh.
-C 3: + đi ra mộ … chạy mau hơn: Sở dĩ Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đến mộ trước Phê-rô là do ông còn trẻ và có sức khỏe dồi dào hơn ông Phê-rô.
-C 4: + Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào: Gio-an thể hiện sự tôn trọng Phê-rô là đán anh, vừa cao niên hơn lại vừa được Đức Giê-su đặt làm người đứng đầu Nhóm Mười Hai.
-C 6: + Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó: Câu này cho thấy tính quyết đoán của Phê-rô. Tuy có chậm hơn Gio-an, nhưng ông Phê-rô đã được Gio-an tôn trọng nhường bước vào bên trong mộ trước. Ông Phê-rô “nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giê-su”. Điều này cho thấy giả thuyết bà Ma-ri-a thông báo xác Thầy đã bị đánh cắp là không có cơ sở, vì “kẻ trộm sẽ chẳng dại mất quá nhiều thời giờ để ngồi tháo các băng vải, cuộn lại đặt riêng ra một nơi” (Theo suy niệm của thánh Gioan Kim Khẩu).
-C 8: + Ông đã thấy và đã tin: Ông Gio-an tuy vào mồ sau Phê-rô, nhưng có lẽ Gio-an đã đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh trước Phê-rô do lòng mến thôi thúc. Chính nhờ lòng mến này mà sau đó, Gio-an đã luôn nhận ra Thầy trước các anh em như ông đã nhận ra Thầy là người mới vừa đứng trên bờ hồ hướng dẫn các ông thả lưới bắt mẻ cá lạ lùng (x. Ga 21,7).
- CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ từ sáng sớm ngày Thứ Nhất và bà ra thăm mộ để làm gì? 2) Hai môn đệ là Phê-rô và Gio-an đóng vai trò thế nào trong Nhóm Mười Hai Môn Đệ của Đức Giê-su ? 3) Khi thấy cửa mộ mở và xác Thầy biến mất, bà Ma-ri-a có tin Thầy đã sống lại không? Câu nói nào của bà cho thấy thái độ không tin Thầy đã sống lại? 4) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 5) Cả hai ông đều thấy mồ trống, đều thấy những tấm băng vải cột xác Thầy khi an táng đã được xếp để lại gọn gàng và ai trong hai ông đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ xấu đến lấy trộm xác?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8b).
2. CÂU CHUYỆN: Một Sư Bà đã được sống lại về phần linh hồn trong giờ chết.
Cha Giuse Bùi Văn Nho, cha sở họ đạo GIƠN ĐẮC (Jeanne d’ Arc) nhà thờ ngã sáu Chợ lớn đã thuật lại câu chuyện cảm động mà chính cha là người trong cuộc như sau:
Vào một đêm khuya thanh vắng bỗng chuông điện thoại trong nhà xứ reo vang. Có tiếng một bà phước mời cha đến ngay bệnh viện Hồng Bàng để ban phép giải tội cho một sư bà đang nằm điều trị tại đây. Sư bà ngỏ ý muốn gặp cha để xin xưng tội. Sau khi tìm hiểu kỹ về trường hợp này, cha biết được sư bà này vốn là người Công giáo, nay gần chết sư bà đã nhờ bà phước mời cha đến giúp bà được sống lại trong ơn nghĩa Chúa!
Khi đến nơi, thấy sư bà đang nằm thở thoi thóp không nói nhiều được. Cha chỉ hỏi vắn tắt mấy câu để biết rõ xem sư bà có phải là người Công giáo không?
– Tên thánh bổn mạng của bà là gì?
– Maria Anna.
Câu trả lời của sư bà khiến cho cha yên tâm để giúp bà sám hối tội lỗi, trước khi ban phép giải tội, phép xức dầu bệnh nhân và cho bà rước lễ như của ăn đàng. Trước khi về nhà, cha còn căn dặn bà phước: nếu sư bà tỉnh lại, phải báo lại cho cha biết để đến giúp gia tăng đức tin. Bốn ngày sau, bà phước báo tin sư bà đã hồi tỉnh và muốn được gặp cha. Cha đã đến gặp và nghe bà tâm sự về cuộc đời và lý do đi tu chùa của bà như sau:
“Thưa cha, quê con ở Cái Nhum, Chợ Lách, thuộc giáo xứ cha P. Thắng. Con bấy giờ là trưởng hội hát trong xứ và là hội viên đoàn con Đức Mẹ. Khi lên 20 tuổi có một thanh niên ở Sài-gòn làm quen và sau đó xin cưới. Hai gia đình đồng ý và đã làm lễ hỏi. Đến gần ngày hẹn, vị hôn phu lại xin hoãn lại ba tháng để thi lấy bằng thành chung. Anh đã về Sài-gòn và dặn con cứ an tâm chờ đợi. Ba tháng, bốn tháng rồi một năm rưỡi qua đi mà vẫn bặt tin tức của anh. Con buồn rầu xấu hổ, nhất quyết lên Sài-gòn đi tìm, dù mọi người thân đều ngăn cản. Một hôm con đã lén ăn cắp ít tiền của cha mẹ, rồi trốn lên Sài-gòn trong tình trạng bơ vơ không biết đi về đâu. Sau đó con đã tìm đến nhà một chị bạn đồng hương và được cho ở trọ. Ngày ngày con đi dò la tin tức mà vẫn không gặp người xưa. Rồi một hôm khi đi dự lễ tại nhà thờ Huyện-sĩ, con tình cờ trông thấy vị hôn phu của con mà anh ta lại không nhìn thấy con. Lễ xong con đi theo anh ta về tới tận nhà mới biết anh đang sống chung với một người vợ và có một đứa con. Con đã té xỉu khi biết rõ sự việc! Rồi con buồn bã đi lang thang không biết phải đi đâu và làm gì ?… Về nhà thì xấu hổ với mọi người, lại sợ bị cha sở và cha mẹ quở mắng.
Sống lây lất ở Sài-gòn được bốn tháng trong tình trạng không còn tiền, bị thất nghiệp và thất tình, một hôm con đã được người bạn giới thiệu xin việc làm ở vùng Chợ Lớn. Tại đây, bị cơn mưa lớn, con vào trú mưa trong một ngôi chùa. Mưa kéo dài mãi tới tối, con đành xin ngủ đêm tại chùa. Sư trụ trì chùa thương hại cho con ăn cơm thêm bốn năm ngày liền. Một hôm nhà sư đề nghị nếu con muốn tu chùa, sẽ giới thiệu ra ngoài Huế. Không hiểu tại sao con lại đồng ý và nhà sư đã viết giấy giới thiệu và còn cho tiền lộ phí nữa.
Ra Huế, tu được 20 năm, con đã được nhận giấy chứng chỉ của Vua Bảo Đại, công nhận là bậc chân tu. Con được lệnh vô Sài-gòn để thành lập một ngôi chùa sư nữ, vì trong miền Nam bấy giờ chưa có chùa cho nữ giới. Nhưng khi vào đến đây được ít lâu, con đã mắc phải bệnh lao phải nằm nhà thương, đến nay là sáu tháng. Mỗi lần con trông thấy cha vào thăm bệnh đi qua giường con, con muốn nói với cha mà không sao mở miệng, nên chỉ biết cúi đầu chào cha. Hôm bệnh trở nặng bị thổ huyết, con mới đánh bạo nói thật với bà phước, để nhờ bà mời cha đến…”
Bà sư sống thêm được hai tuần lễ nữa rồi qua đời sau khi đã được hoàn toàn quay về làm con cái Thiên Chúa. Khi bà vừa tắt thở thì một điều rắc rối đã xảy ra: một vị sư thày đã đến trách cha sở cướp người nhà chùa của họ. Sư thầy nói: “Bao nhiêu người khác sao cha không dụ theo đạo mà lại dụ dỗ người nhà chùa của chúng tôi?”. Cha cố gắng giải thích thế nào thì sư thày cũng không chấp nhận. Ông không tin sư bà trước kia là người Công giáo. Sau cùng cha đành đồng ý để bên nhà chùa cử hành lễ nghi an táng theo Phật Giáo. Nhưng rồi hai tiếng đồng hồ sau, nhà sư đột nhiên thay đổi ý kiến. Ông đến gặp cha và nói như sau: “Chúng tôi xin nhường việc an táng bà này cho bên Công giáo”. Rồi nhà sư giải thích lý do: “Vì khi thay xiêm áo cho bà, chúng tôi đã tìm thấy trong bóp của bà một bản di chúc nói rõ tên thật, tên cha mẹ, quê quán và yêu cầu nhà chùa nhắn tin cho cha mẹ của bà biết là bà đã được chịu các phép bí tích công giáo trước khi chết. Bà còn nói rõ ý muốn: “Tôi muốn được chôn cất theo nghi lễ Công giáo”. Vì thế chúng tôi xin nhường lại cho bên Công giáo cử hành nghi lễ an táng cho bà và chỉ xin được tiễn đưa bà tới nơi mộ phần thôi. Đám tang của sư bà hôm ấy có rất đông sư sãi đi tiễn đưa và chỉ có một linh mục là cha sở Nhà thờ Ngã sáu. Sau lễ an táng, bà phước đã trao cho cha cái bóp của sư bà, trong đó có một mẫu ảnh áo Đức Bà Núi Carmêlô. Có lẽ nhờ có lòng mến Đức Mẹ nên cuối cùng sư bà đã được Mẹ cầu bầu để sống lại trong ơn nghĩa Chúa vào giờ sau hết.
(Viết theo “Những Trang Sử Đẫm Mồ Hôi Của Họ Chợ Lớn”- VN, tr. 94-100)
3.THẢO LUẬN: 1) Bạn có cảm nghĩ gì sau khi biết được câu chuyện của sư bà nói trên? 2) Theo bạn khi mừng lễ Phục Sinh hằng năm, để việc mừng lễ có giá trị thực sự, mỗi người tín hữu phải làm gì cho bản thân và giúp đỡ tha nhân chung quanh?
4.SUY NIỆM:
1) Sự sống lại của Chúa đã làm cho các Tông đồ được biến đổi:
Cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh đã làm biến đổi cuộc đời của các tông đồ: Nếu trước cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, ông Phê-rô đã tỏ ra hèn nhát kém tin khi đã chối Thầy tới ba lần, thì sau khi gặp Chúa Phục Sinh và đón nhận được Thần Khí của Người, ông đã nên can đảm mạnh mẽ, rao giảng về Chúa Ki-tô trước đám đông dân chúng, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước công đường… Trước đây chưa hiểu Lời Chúa, thì nay ông đã thông suốt những Lời Chúa trong Sách Thánh nhờ gặp được Chúa Phục Sinh như ông đã khẳng định: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng… Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tưởng”.
2) Điều kiện để nên con người mới: phải chết đi cho con người cũ:
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi đã chết, nên chúng ta cũng chỉ có được sự sống mới sau khi đã chết đi cho con người cũ. Đó là chết đi cho những thói hư và tội lỗi của con người cũ nơi ta như lời thánh Phao-lô dạy: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
Sự sống mới đòi hỏi một sự tự hủy và lột xác: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Cũng vậy, khi phá hủy «cái tôi ích kỷ», thì «cái tôi» ấy sẽ không bị mất đi, nhưng sẽ được chuyển hóa thành một con người mới phong phú, mạnh mẽ hơn gấp bội. Thực tế cho thấy: Ai càng ích kỷ thì sức sống của họ càng nhỏ bé và càng mất đi giá trị và hạnh phúc. Ngược lại, «Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân sẽ không tìm thấy hạnh phúc và cũng chẳng giúp cho ai có được hạnh phúc. Trái lại, những vị thánh, những người luôn quên mình, vị tha lại là những người luôn sống trong hạnh phúc, mặc dù xem ra bề ngoài các ngài có bị thiệt thòi và chịu khổ cực hơn ai hết.
3) Xin được sống lại thật về phần linh hồn:
Chúa Ki-tô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Ki-tô đã sống lại, cái chết khộng còn là biểu tượng của thất bại và là ngõ cụt, nhưng đã trở thành cánh cửa mở ra hướng về một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đã về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mời gọi chúng ta đi theo Người “qua đau khổ vào trong vinh quang”. Đó là đức tin và là niềm hy vọng của các tín hữu chúng ta.
Mỗi môn đệ Chúa xưa mỗi người đều có một cách thức đón nhận đức tin và biểu lộ đức tin vào mầu nhiệm phục sinh cách khác nhau; nhưng tất cả đều có chung một lòng yêu mến Chúa Giê-su và sẵn sàng làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống quên mình vị tha và sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
4) Sống lại thành con người mới luôn quên mình, vị tha, khiêm nhường phục vụ:
Con người mới được thánh Phaolô xác định như sau: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24). Như vậy, trở nên con người mới chính là nên con người nguyên thủy như khi mới được Thiên Chúa tạo dựng, và trước khi phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản tính của “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vậy, để có một đời sống mới, con người mới, ta cần quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người tự mãn ích kỷ, khi chỉ biết lo cho bản thân mình… để mặc lấy con người mới là con người vị tha, luôn sống chan hòa yêu thương phục vụ tha nhân. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta cần phải cầu xin ơn Thánh Thần như thánh Phao-lô đã dạy: «Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta có ơn Thánh Thần, chúng ta sẽ được Ngài biến đổi toàn diện: Từ cách suy nghĩ, nói năng đến thái độ và hành động, để trở thành một con người mới thực thụ, giống như các Tông đồ khi xưa sau khi đớn nhận Thánh Thần trong lễ Ngũ tuần. Nhờ đó, mầu nhiệm phục sinh của Đức Giê-su mới thật sự mang lại ích lợi cho cuộc sống đời đời của chúng ta.
5.LỜI CẦU:
Lạy Chúa Phục Sinh. Xin ban cho con luôn có được sự sống của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ mãi xanh tươi và được đơm bông kết trái. Xin ban cho con luôn có sự bình an của Chúa, nhờ đó con sẽ vững tâm theo Chúa giữa bao sóng gió đường đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, nhờ đó khuôn mặt của con sẽ luôn tươi vui rạng rỡ, sẵn sàng tỏ ra thân thiện và đi bước trước đến kết bạn với tha nhân. Xin ban cho con niềm tin và niềm hy vọng của Chúa, nhờ đó con sẽ hăng hái lên đường chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, không quản ngại những khó khăn gian khổ. Và nhất là: Lạy Chúa, xin ban cho con đầy tràn Thần Khí của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ luôn được đổi mới nên tốt lành thánh thiện và giới thiệu Chúa đến cho mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Ngay trong Đêm Canh Thức Vọng Phục Sinh, Giáo hội đã cất cao bài ca khúc khải hoàn: Ha-lê-lui-a, Chúa đã phục sinh như một niềm vui “vỡ òa”. Với niềm vui này, Giáo hội muốn dẫn đưa toàn thể con cái mình bước vào mùa hoan lạc phục sinh. Bởi thế các bài Tin Mừng tối hôm qua và ngày hôm nay đều chung một đề tài, đó là sự kiện “Ngôi mộ trống”. Đây là một sự kiện được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại. Đêm Vọng Phục sinh sẽ lần lượt suy niệm sự kiện này theo các Tin Mừng Nhất Lãm (theo năm phụng vụ), riêng Tin Mừng theo thánh Gioan được suy niệm chính ngày lễ Phục sinh hôm nay.
Sự kiện “Ngôi mộ trống” từ xa xưa đã được xem như một trong những bằng chứng về việc Chúa đã phục sinh. Chúa đã chịu tử nạn, đã được mai táng trong mộ. Nay mộ còn mà người không còn thì chắc chắn người ấy đã phục sinh. Một kiểu lý luận rất đơn giản được sử dụng để khẳng định Chúa đã phục sinh. Nhưng có lẽ vì tính đơn giản đến như vậy, nên ngay từ thời Chúa Giêsu, đã không ít người hồ nghi về tính xác thực của kiểu lý luận này. Cũng chính vì thế mà thánh sử Mát-thêu, sau khi đưa ra sự kiện “Ngôi mộ trống” đã phải giải thích như sau: “Có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: ‘Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự’. Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến nay” (28,11-15).
Thực ra, thánh sử Mát-thêu có biện hộ mấy đi nữa thì ngài cũng là người đã tin rồi. Tin chắc chắn Chúa đã phục sinh rồi thì ngài mới biện hộ như thế để cho những ai đã tin được vững tin hơn, đừng để bị người ta lôi kéo lừa gạt. Còn với người chưa tin, không tin, liệu những lời biện hộ của thánh sử Mát-thêu có giá trị không? Lời của lính canh cũng rất hợp lý đấy chứ? Canh đêm mà ngủ, có gì lạ đâu. Ngủ nên bị mất trộm, lại càng hợp lý. Thời nay, có người đang canh, đang thức, mà vẫn mất trộm. Đấy là chưa nói đến chuyện lính canh có thể nhận tiền hối lộ rồi cho phép môn đệ mang xác đi. Chả lẽ chuyện tham nhũng, hối lộ, bây giờ mới có?
Đã gọi là “bằng chứng”, nghĩa là làm chứng bằng cái gì đấy. Việc lấy sự kiện “Ngôi mộ trống” để chứng minh Chúa đã phục sinh, xem ra không phải là một bằng chứng chắc chắn. Vậy chúng ta phải tìm bằng chứng này ở đâu?
Cho dù cả bốn thánh sử không nói ra, nhưng sau khi kể lại sự kiện “Ngôi mộ trống”, các ngài đều ghi lại sự kiện các tông đồ, môn đệ và một số phụ nữ đã gặp Chúa. Chính những người này luôn khẳng định: Chúa đã phục sinh. Họ chẳng những đã gặp Người mà còn ăn uống, nói chuyện với Người nữa. Bảo rằng những vị này tin Chúa đã phục sinh xem ra không đúng lắm, vì chính các vị đã gặp Chúa rồi còn tin gì nữa. Đấy là một sự thật, một sự hiển nhiên như ban ngày và không gì có thể khuất phục được các vị, dù bắt các vị này phủ nhận đã gặp Chúa, thậm chí bắt các vị phải chết.
Đây mới là bằng chứng giá trị nhất. Chính các tông đồ, môn đệ và cộng đoàn tiên khởi là bằng chứng sống về sự kiện Chúa phục sinh. Vì thế, trong suốt Mùa Phục Sinh, Giáo hội sẽ không ngừng cho chúng ta suy ngắm, gần như hằng ngày, sách Công vụ Tông Đồ. Với cuốn sách này, Giáo hội sẽ giúp chúng ta đi vào đời sống chứng tá của những bậc tiền bối trong đức tin. Chính các ngài có thể dẫn chúng ta vào kho tàng đức tin của Giáo hội.
Sự kiện Chúa phục sinh dường như không thể chứng minh, nhưng vẫn biết bao người vẫn tin và sống mầu nhiệm ấy. Mấy hôm bận việc mục vụ tuần thánh, chúng tôi không kịp theo dõi thông tin đại chúng, đọc bài “Điểm sáng giữa đêm đen” của Đức cha giáo phận trên trang mạng, chúng tôi bị cuốn hút về việc một em sinh viên nhặt được hơn một tỉ đồng, đã trả lại cho người bị mất. Chúng tôi liền vào các trang mạng để biết chi tiết hơn và thật ngạc nhiên khi biết em sinh viên là người Công giáo. Ngày nhặt được tiền cũng là ngày Chúa nhật (22/03/2015), em không thể trả lại tiền ngay được và phải tắt điện thoại vì đang dự lễ như báo chí cho biết. Đọc những lời tâm sự của em, chúng tôi hết sức cảm động: “Mình cũng là người theo đạo, học được những giáo lý sống sao cho không hổ thẹn với lương tâm. Tất cả những điều đó khiến mình không có nhiều đắn đo quyết định trả tiền cho người đánh rơi”.
Chúa phục sinh là điều không thể chứng minh, nhưng đọc những lời của em Lê Doãn Ý, học viên Viện đại học Mở Hà Nội tại Đà Nẵng, chúng tôi muốn nói lời cám ơn em vì qua việc em đã làm, một lần nữa, chứng tá Chúa phục sinh lại được thể hiện ngay trong cuộc sống hôm nay.
Post A Comment:
0 comments: